Người Ki-tô hữu nào cũng biết cốt lõi của Ki-tô giáo là yêu thương bác ái. Nói hay giảng yêu thương bác ái thì dễ nhưng sống bác ái yêu thưong thì không dễ chút nào! Nhưng “khó” không có nghĩa là “không thể” và “khó” cũng không là cái cớ để chúng ta trốn tránh, không thực hành. Các bài Sách Thánh của Chúa Nhật VI Phục Sinh Năm B hôm nay nhắc cho chúng ta nhớ và thực hiện điều cốt lõi của Đao là yêu thương bác ái!
II. LẮNG NGHE LỜI CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
2.1 Trong bài đọc 1 (Cv 10,25-26.34-35.44-48): Thiên Chúa ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại.
(25) Khi ông Phê-rô bước vào nhà ông Co-nê-li-ô, thì ông liền ra đón và phủ phục dưới chân ông mà bái lạy. (26) Nhưng ông Phê-rô đỡ ông ấy lên và nói : “Xin ông đứng dậy, vì bản thân tôi đây cũng chỉ là người phàm.”
(34) Bấy giờ ông Phê-rô lên tiếng nói: “Quả thật, tôi biết rõ Thiên Chúa không thiên vị người nào. (35) Nhưng hễ ai kính sợ Thiên Chúa và ăn ngay ở lành, thì dù thuộc bất cứ dân tộc nào, cũng đều được Người tiếp nhận.
(44) Ông Phê-rô còn đang nói những điều đó, thì Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa. (45) Những tín hữu thuộc giới cắt bì cùng đến đó với ông Phê-rô đều kinh ngạc vì thấy Thiên Chúa cũng ban Thánh Thần xuống trên cả các dân ngoại nữa, (46) bởi họ nghe những người này nói các thứ tiếng và tán dương Thiên Chúa. Bấy giờ ông Phê-rô nói rằng: (47) “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?” (48) Rồi ông truyền làm phép rửa cho họ nhân danh Đức Giê-su Ki-tô. Sau đó họ xin ông ở lại ít ngày.
2.2 Trong bài đọc 2 (1 Ga 4,7-10):Thiên Chúa là tình yêu.
(7) Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương, thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa. (8) Ai không yêu thương, thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu. (9) Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống. (10) Tình yêu cốt ở điều này: không phải chúng ta đã yêu mến Thiên Chúa, nhưng chính Người đã yêu thương chúng ta, và sai Con của Người đến làm của lễ đền tội cho chúng ta.
2.3 Trong bài Tin Mừng(Ga 15,9-17): Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của Người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu.
(9) Khi ấy Đức Giê-su nói với các môn đệ rằng: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. (10) Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người. (11) Các điều ấy, Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng niềm vui của Thầy, và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn.
(12) “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. (13) Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình. (14) Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. (15) Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.
(16) “Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn tại, hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danh Thầy, thì Người ban cho anh em. (17) Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau.”
III. KHÁM PHÁ CHÂN DUNG & SỨ ĐIỆP CỦA THIÊN CHÚA TRONG BA BÀI THÁNH KINH
3.1 Chân dung của Thiên Chúa:
1°) Bài đọc 1 (Cv 10,25-26.34-35.44-48) là tường thuật việc Thánh Thần Thiên Chúa được ban cho những người chưa chịu Phép Rửa mà Tông đồ Phê-rô gặp tại nhà ông Co-nê-li-ô. Trước cảnh tượng lạ lùng và bất ngờ ấy, Tông đồ Phê-rô phải tuyên bố: “Những người này đã nhận được Thánh Thần cũng như chúng ta, thì ai có thể ngăn cản chúng ta lấy nước làm phép rửa cho họ?”
Qua sự kiện trên chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng không thiên vị ai: do lòng yêu thương, Người đã ban Thánh Thần và niềm tin cho mọi người thành tâm thiện chí tìm kiếm Người.
2°) Bài đọc 2 (1 Ga 4,7-10) là lời giảng dạy của Tông đồ Gio-an dành cho các môn đệ: hãy yêu nhau vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa: “Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra và người ấy biết Thiên Chúa.” Thế có nghĩa là những ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu. Thiên Chúa thể hiện Tình yêu của Người đối với nhân loại bằng việc sai Con Một Người đến thế gian để nhờ Con Một ấy mà con người được sống. Trong Tình Yêu Thiên Chúa là Đấng đi trước khi dựng nên chúng ta, cứu chuộc chúng ta, chọn chúng ta làm con, làm bạn hữu nghĩa tình.
3°) Bài Tin Mừng (Ga 15,9-17) là những lời tâm sự của Đức Giê-su tiếp nối những lời khẳng định về mối quan hệ khắng khít giữa Người và các môn đệ. Cả một kho tàng phong phú được chính Chúa Giê-su mạc khải và trao ban cho chúng ta:
(a) Chúa Cha yêu mến Chúa Giê-su thế nào thì Chúa Giê-su cũng yêu thương các môn đệ như vậy. Chúa Cha yêu Chúa Giê-su vì Chúa Giê-su đã thực thi trọn vẹn thánh ý và kế hoạch của Cha. Chúa Giê-su đã yêu thương các môn đệ đến hy sinh mạng sống mình vì họ: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.”
(b) Chúa Giê-su mời gọi các môn đệ đáp lại tình thương vô biên của Người là ở lại trong tình thương của Người. Bằng cách tuân giữ các điều răn, nhất là điều răn yêu thương – như Người đã vì yêu thương mà giữ các điều răn của Cha.
(c) Chúa Giê-su đã coi các môn đệ là bạn hữu thân thiết nên đã bộc lộ cho biết những điều Người đã nghe/biết được ở nơi Cha. Và Người đã chọn các ông trước, chứ không phải ngược lại. Người chọn các ông để sai họ đi rao giảng, làm chứng cho Nước Trời và cho Tình Thương của Thiên Chúa. Người chọn các ông để họ sinh nhiều hoa trái không hư nát.
3.2 Sứ điệp của Lời Chúa:
Sứ điệp của Lời Chúa hôm nay là: THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU CHO ĐI. Cụ thể là:
(a) Thiên Chúa Cha đã yêu thương loài người đến nỗi đã ban Con Một Người cho nhân loại;
(b) Chúa Giê-su Ki-tô, Con Một Thiên Chúa, đã hiến mạng sống mình vì các môn đệ và mọi người và đã kết bạn với các môn đệ;
(c) Chúa Thánh Thần đã ngự xuống trên tất cả những người đang nghe lời Thiên Chúa cho dù họ chưa được thánh tẩy bằng nước. Vì thế Thiên Chúa muốn chúng ta đáp lại Tình Yêu của Người bằng sống yêu thương bác ái với đồng loại.
IV. SỐNG VỚI CHÚA VÀ THỰC THI SỨ ĐIỆP CỦA LỜI CHÚA HÔM NAY
4.1 Sống với Thiên Chúa là Tình Yêu nên Người mời gọi chúng ta sống kết hiệp với Người và sống bác ái yêu thương với đồng loại.
4.2 Thựcthi sứ điệp Lời Chúa là đáp lại Thiên Chúa là TÌNH YÊU CHO ĐI:
Trước hết chúng ta đáp lại Thiên Chúa là TÌNH YÊU CHO ĐI trong đời sống cá nhân bằng một đời sống gắn bó mật thiết với Chúa Giê-su, với Thiên Chúa và thể hiện lòng Mến Chúa trên hết mọi sự.
Kế đến chúng ta đáp lại Thiên Chúa là TÌNH YÊU CHO ĐI trong đời sống gia đình bằng một đời sống hy sinh, phục vụ những người ruột thịt với một tình yêu vô vị lợi, không tính toán và giúp mọi người trong gia đình biết yêu mến Thiên Chúa và yêu thương tha nhân như Chúa dạy.
Sau cùng chúng ta đáp lại Thiên Chúa là TÌNH YÊU CHO ĐI trong đời sống cộng đồng và xã hội bằng một đời sống mình vìmọi người nhằm mưu ích chung cho mọi người, nhất là cho những người yếu kém nhất trong xã hội.
V. CẦU NGUYỆN CHO HỘI THÁNH VÀ NHÂN LOẠI
[Ghi chú: Lời cầu nguyện giáo dân thường có 4 ý: ý thứ nhất cầu cho thế giới, ý thứ hai cầu cho Hội Thánh toàn cầu, ý thứ ba cầu cho giáo dân của giáo xứ, ý thứ bốn cầu cho một hạng người đặc biệt nào đó]
5.1 “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa.”Chúng ta hãy cầu nguyện cho các dân tộc trên thế giới để mọi người, mọi cộng đồng biết sống yêu thương bác ái với nhau.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.2 “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu, nhất là cho Đức Thánh Cha Bê-nê-đi-tô XVI, cho các Hồng Y, Giám Mục, Linh Mục, Phó Tế và Tu Sĩ Nam Nữ, để mọi thành phần Dân Chúa sống yêu thương và hy sinh phục vụ theo gương Chúa Giê-su Ki-tô.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.3 “Đây là điều răn của Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho mọi người thuộc giáo xứ chúng ta, nhất là cho những người tham dự Thánh Lễ này, để ai nấy sống bác ái yêu thương với mọi người xung quanh theo gương Thầy Giê-su.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
5.4 “Anh em là bạn hữu của Thầy.” Chúng ta hãy cầu nguyện cho các Ki-tô hữu khát khao đời sống trọn lành để họ cảm nghiệm được tình bạn hữu của Chúa Giê-su, Thiên Chúa làm người.
X.- Chúng ta cùng cầu xin Chúa. Đ.- Xin Chúa nhận lời chúng con.
Sách Công Vụ Tồng Đồ 10.25-26, 34-35,44-48; Thư Thứ I của Thánh Gioan 1.7-10
và Phúc Âm Thánh Gioan 15.9-17
I.Giáo Huấn P.Â.:
“Chúa Cha yêu mến Thầy thế nào – Thầy cũng yêu mến anh em như vậy” Chúa Cha và Chúa Con là một – Chúa Con và chúng ta cũng thành một. Nói khác đi: Hãy liên kết và hòa nhập với Chúa GIêsu.
Ai yếu mến Chúa là giữ những điều Chúa dạy. Nói khác đi, giữ luật Chúa là yêu mến Chúa.
Thiên Chúa Cha yêu mến những ai yêu mến Thiên chúa Con.
“Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa… Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu” Tình yêu làm cho người yêu nhau thành một và không còn phân biệt giai cấp hay khác biệt như chủ tớ.
“Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em..” Con người được kêu gọi sinh ra và phục vụ cho Thiên Chúa. Chúng ta có ơn gọi làm người và phục vụ Chúa.
II.Vần nạn P.Â.
Diễn từ ly biệt của Chúa Giêsu chỉ được ghi lại trong Phúc Âm Gioan.
Phúc Âm Nhất Lãm, Matthêô, Marcô và Luca đềutường thuật về bữa tiệc ly của Chúa Giêsu và các tông đồ, cũng như việc thiết lập Bí Tích Thánh Thể và cơn hấp hối trong vườn cây dầu. Tuy nhiên chỉ có Phúc Âm Gioan có diễn từ biệt ly, dài tới bốn chương từ chương 14 đến chương 17. Tại sao?
Các tác giả Phúc Âm Nhất Lãm, chỉ có tông đồ Matthêô hiện diện trong bữa tiệc ly đêm tối Thứ Năm. Đọc giả của Phúc Âm Thánh Matthêô là những Kitô hữu Do Thái gắn liền với truyền thống Do Thái Giáo. Phúc Âm được viết để đáp ứng nhu cầu phát triển của Giáo Hội Sơ Khai sau năm 70, tức sau biến cố triệt hạ đền thờ Giêrusalem và phân tán Do Thái của đế quốc La Mã.
Phúc Âm Matthêô được biểu tượng bằng hình con người. Tác giả Phúc Âm muốn diễn tả Chúa Giêsu là con Thiên Chúa, là Đấng đến từ dòng dõi David chứ không nhằm diễn tả những ý niệm cao siêu và khá trừu tượng như trong Phúc Âm về diễn từ ly biệt nói về tình yêu và về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và sự thông hgiệp giữa Kitô hữu và mầu nhiệm hiệp nhất hoàn hảo nầy.
Các Phúc Âm khác như Phúc Âm Marcô hay Luca được coi như những bản sao chép của Phúc Âm Matthêô. Nên đương nhiên không thể có diễn từ ly biệt vì “bản gốc” đã không có.
Phúc Âm Gioan được viết sau cùng và có mặt ở cộng đồng Kitô hữu vào đầu thế kỷ thứ hai. Vì thành hình sau cùng nên đầy đủ nhất và chứa đựng nhiều yếu tố thần học, đặc biệt về Kitô học. Phúc Âm thứ tư được biểu tượng bằng chim phượng hoàng, bay cao, xa và trên. Rất có thể Chúa Giêsu đã không có diễn từ ly biệt rất dài đến bốn chương trong Phúc Âm Gioan. Rất có thể phần chính trong diễn từ nầy đến từ những suy tư và đời sống tông đồ của Thánh Gioan. Gioan muốn dạy cho giáo dân về giới luật yêu thương, về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi và về sự liên kết giữa con người và Chúa Giêsu, nên Ông đã tận dụng những nhắn nhủ của Chúa sau khi rửa chân cho các tông đồ, để đặt vào miệng Chúa Giêsu bài diễn từ biệt ly trên.
Yếu tố chính trong diễn từ ly biệt đêm tiệc ly
Yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con:
Yêu thương nhau là luật Chúa. Luật Chúa được coi là bất khả di dịch và không miễn trừ. Giới luật yêu thương có trong mười điều răn Đức Chúa Trời. Giới luật yêu thương có trong tất cả các tôn giáo. Giới luật yêu thương được đặt định trong tâm hồn mọi người. Nên có tghể nói: Yêu thương là luật tự nhiên. Ai cũng biết là mình phải yêu thương người khác và ai cũng cần người khác yêu thươngt mình.
Nhưng phải làm như thế nào để thể hiện giới luật yêu thương?
“Yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con!”
Thế nào là như Thầy yêu thương các con?
Vô điều kiện: Chúa Giêsu yêu các tông đồ không vì họ đáng yêu.
Vô vị lợi: Chúa Giêsu yêu các tông đồ không vì họ mang lợi lộc cho Chúa.
Vô giới hạn: Yêu thương đến chết và hy sinh tột cùng.
Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.
Tuân giữ giới răn Chúa truyền: Yêu thương nhau.
Đúng như Chúa đã trả lời cho thắc mắc: Đâu là giới răn cao trọng nhất?
Yêu Chúa hết tâm hồn và hết trí khôn. Yêu người khác như chính mình.
Hai điều trên gói trọn lề luật Chúa và các tiên tri.
Giới luật cốt lõi: Kính Chúa yêu người nầy làm người ta đi đến thắc mắc về giáo huấn của Giáo Hội cũng như về số nhiều và phức tạp trong những lề luật của Giáo Hội? Có nhiều người thắc mắc về vai trò của Giáo Hội trong chương trình cứu độ. Kính Chúa và yêu người là đủ. Tại sao còn có 1752 khoản Giáo Luật và vô số luật của Hội Đồng Giám Mục, của Giám Mục địa phận rồi ngay các Cha sở cũng ra luật.
Để giải thích thắc mắc trên, tôi chỉ xin trưng dẫn khoản cuối cùng trong Giáo Luật, điều 1752 nói như sau: “… đặt trước mắt luật tối cao trong Giáo Hội, đó là phần rỗi các linh hồn” Nên Giáo Hội có bổn phận giáo huấn tín hữu bằng những luật lệ hay chiỏ thị… Tuy nhiên, tất cả phải vì mang ích lợi phần rỗi cho giáo dân, tức là phải vì tình yêu thương mà ban luật. Nên nhiều giáo huấn và nhiều luật lệ để thể hiện tình bác ái cách cụ thể và thiết thực hơn.
“Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa… Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu”
Chúng ta có thể hiểu như sau:
Chúa Giêsu xác quyết là: Thiên Chúa rất cao cả, nhưng không còn cách biệt chúng ta nữa. Ngài mặc lấy xác phàm và ở giữa chúng ta. Thiên Chúa cắm lều ở giữa chúng ta. Thiên Chúa trở nên bạn của chúng ta.
Thứ đến, Thiên Chúa chọn chúng ta làm cộng tác viên của Ngài: Chúng ta được mới gọi để chia sẻ công việc cứu chuộc nhân loại của Ngài.
Chúa Giêsu xuống trần làm người có nghĩa là nhập thế, có nghĩa là hòa mình, có nghĩa đồng hóa với con người và có nghĩa là cần con người hợp tác. Nên vấn đề khiếp sợ thần linh trong đạo cũ hay kính nhi viễn chi không còn thích hợp với Tân Ước. Con người phải gần với Chúa như hai người bạn. Con người phải cộng tác với Chúa như những cộng tác viên với nhau.
Từ chỗ đó, sống đạo phải:
Sống thân tình với Chúa như bạn thân.
Phải nói chuyện và tâm sự với Chúa như tri kỷ.
Phải quan tâm chia sẻ công việc của Chúa là mang ơn cứu độ cho người khác.
Về vấn đề cầu nguyện hay tâm sự với Chúa, nên bắt chước Thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su “Cầu nguyện để được nhậm lời, thì không cần phải đọc một câu kinh đặt thật hay và thật đúng hoàn cảnh. Tôi làm như mấy đứa nhỏ không biết đọc sách: chỉ nói đơn sơ với Chúa những điều tôi muốn nói, và luôn luôn Chúa hiểu tôi. Tóm lại, cầu nguyện là một cái gì cao cả, siêu nhiên, làm cho tâm hồn mở ra và kết hợp với Chúa." (Thánh Tê-rê-xa HĐ, Chuyện một tâm hồn)
“Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em..”
THÁNH BARNABÊ, MÔN ĐỆ CỦA CHÚA GIÊSU: Một trưng dẫn về ơn gọi của Chúa.
Đã có lần, có dịp nghe Chúa Giêsu giảng dậy và đã chứng kiến Chúa Giêsu làm phép lạ, thánh Barnabê đã trở thành một trong 72 môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Vì Chúa Giêsu đã nói:” Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái...”( Ga 15, 16 ).Chính Chúa Giêsu đã chọn Barnabê để thánh nhân làm chứng cho tình yêu của Chúa và giới thiệu Chúa Giêsu cho nhiều người. Sau biến cố Chúa Giêsu lên trời, các tông đồ sai Barnabê đi truyền giáo ở Antiokia, một miền trù phú và thịnh vượng, phồn vinh nhất lúc bấy giờ. Và như lời Chúa nói:”...hầu tất cả những gì anh em xin cùng Chúa Cha nhân danhThầy thì Thầy ban cho anh em”( Ga 15, 16 ). Thánh Barnabê luôn có Chúa Thánh Thần tràn đầy và nhờ tài giảng thuyết, Ngài đã đưa được biết bao nhiêu người trở về với Chúa. Thánh nhân đã mời thánh Phaolô về ở với mình và cùng giảng dậy, loan báo Tin Mừng ở Antiokia. Sau đó, thánh nhân mang món tiền mà Ngài đã quyên góp được về Giêrusa lem gặp các vị kỳ mục và các tông đồ khác. Đường lối và ý nhiệm mầu của Chúa lại khác, Barnabê và Phaolô lại được trao sứ mạng rao giảng Tin Mừng cho dân ngoại, nên các Ngài lại trẩy đi Séleucie và Chypre.
III.Thực hành P.Â.:
“Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em..” Tại Chúa cho tôi vậy, ai chịu không chịu thì thôi!
Thường người ta hiểu Chúa chọn chúng ta từ trong lòng thân mẫu, nghĩa là chúng ta như thế nào thì Chúa chọn thế ấy. “Tại Chúa cho tôi vậy mà!” Đây là chủ trương sống của một linh mục Việt Nam gốc người Miền Nam: Sống thành thật, dễ thương, nhưng nhiều khi lè phè hay thích du di tình cảm, có sao nói vậy. Chúa cho sao để vậy, trau chuốt là chuyện giả hình.
Nếu chủ trương như thế thì đâu còn cần có chủng viện để đào tạo hay làm cho con người chúng ta thăng tiến về đức, trí hay thể lý. Chúa chọn gọi chúng ta trong lòng thân mẫu! Đồng ý! tuy nhiên không phải chúng ta như thế nào thì Chúa phải nhận thế ấy, không cần trau chuốt hay làm cho tốt hơn.
Người Miền Nam Việt Nam thường tự hào là thành thật, có sao nói vậy. Xin đan cử vài câu nói mà tôi nghe được:
Một chị thân quen, lâu năm không gặp, vừa có dịp gặp lại, chị thành thật có ý kiến “Cha ơi Cha! Sao Cha mau già giữ vậy Cha!”
Một người quen và biết chuyện đôi chút khi đọc Đặc San NHƯ THẦY YÊU THƯƠNG viết về Cha Diệp đã điện thọai cho tôi phát biểu mạnh dạn “Sai trăm phần trăm!”
Một người giáo dân đã sửa lưng tôi sau bài giảng “Nói thì nói cho trúng!” Vì anh nầy ở Sàigòn mà tôi nói sai địa danh giữa chợ Cầu Ông Lãnh và Chợ Cầu Muối.
Một Ông khá lớn tuổi đã răn dạy tôi là: “Khi đến giáo xứ nào thì phải biết giáo xứ đó đông hay ít, tinh thần như thế nào... Đem theo có một trăm quyển báo thì phát cho ai?”
Ai cũng có kinh nghiệm về những lời chân tình trên, nhưng nhiều khi quá “hai lúa và mộc mạc”. Chúa chọn chúng ta, nhưng chúng ta cần được giáo dục và thăng tiến trong lời ăn tiếng nói để thành một cộng sự viên kiến hiệu cho nước Chúa hơn. Dù biết là thành thật, tuy nhiên không mấy ai thích hay muốn nghe thêm những lời nói quá sổ sàng trên.
Tâm sự người có tuổi:
Càng có tuổi, tôi lại càng thấy sự kỳ diệu của mỗi độ xuân về.
Càng có tuổi, tôi càng khám phá ra những điều mà tôi không nhận thấy trước kia.
Càng có tuổi, tôi càng thấy những mùa xuân còn lại không còn bao nhiêu nữa.
Càng có tuổi, tôi càng sung sướng thưởng thức mỗi giây phút quý giá qua đi trong cuộc đời.
Càng có tuổi, tôi càng thấy mùa xuân mang lại cho tôi sự ngất ngây và vui sướng.
Càng có tuổi, tôi càng thích săn sóc cây và hoa của tôi, và tôi thích tâm sự với những người bạn im lặng này.
Càng có tuổi, tôi càng thích nghe chim hót; mỗi tiếng chim là mỗi một giai điệu mật ngọt rót vào tai.
Càng có tuổi, tôi càng ao ước được thấy nhiều mùa xuân trở lại.
Càng có tuổi, tôi càng thấy mình không nghĩ được như vậy khi còn trẻ.
Càng có tuổi, tôi càng muốn cám ơn cuộc sống đã cho tôi thấy thêm một mùa Xuân trở lại.
Càng có tuổi tôi càng thấy trân quý ơn gọi của Chúa cho tôi sinh làm người và chọn tôi phục vụ Ngài qua bậc sống của mình.
Xin hãy xử dụng món quà sự sống và ơn gọi làm người để làm cho đời thêm đẹp.
Đời sẽ không bao giờ hoan hảo.
Không hoàn hảo mới gọi là đời.
Không hoàn hảo mới gọi là trần.
Nếu đã hoàn hảo thì đã là trời hay thiên đàng.
Trời và thiên đàng không còn cần cứu độ hay cảm hóa.
(Bài đọc l : Cv 9, 26-31; Bài đọc 2 : 1 Ga 3, 18-24;Tin mừng : Ga 15, 1-8)
1- Sứ điệp nguyên thủy :
(1) Khi mời gọi “đọc” Cv 9, 26-31 và 1 Ga 3, 18-24 qua lăng kính Ga 15, 1-8, Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật Phục Sinh V B hôm nay mặc khải cho thấy tầm quan trọng và hiệu quả của mối tương quan giữa con người với Đức Giêsu-Kitô, và qua Ngài, với Thiên Chúa-Ba Ngôi, như được phản ảnh, trước tiên, trong Ga 15, 1-8 : ở đây, một đàng, cho thấy đó là tương quan giữa thân nho và các nhành nho, và các nhành nho chỉ cho hoa trái khi “liên kết” với thân nho cách thực sự, hay khi “sống” sự sống của cây nho [“Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.” (15, 5)], và sẽ chẳng thể nào cho hoa trái nếu chỉ biết “quan tâm” đến sự tồn tại của riêng mình thôi, chứ không quan tâm gì tới sự tồn tại và phát triển của toàn cây nho [“Cành nào gắn liền với Thầy mà không sinh hoa trái thì Ngài (=Cha) sẽ chặt đi.” (15, 2)]…
(2) Thứ đến, trong Cv 9, 26-31 : ở đây, cho thấy sự “thuộc về”, “liên kết với” hay “ở trong” Đức Giêsu-Kitô chủ yếu tùy thuộc vào tương quan ngã vị, hiện sinh, cụ thể giữa Ngài và các đương sự, chứ không nhất thiết chỉ do “có tên ở trong” hay “thuộc về cơ cấu”của một cộng đoàn nào đó mà thôi [“Hồi ấy, khi tới Giêrusalem, ông Saolô tìm cách nhập đoàn với các môn đệ. Nhưng, mọi người vẫn còn sợ ông, vì họ không tin ông là một môn đệ.” (9, 26)]…
(3) Sau cùng, trong 1 Ga 3, 18-24 : ở đây, cho thấy điều làm nên căn tính “là” người và “là” con của Thiên Chúa của chúng ta, một đàng, tùy thuộc vào việc chúng ta được “ở trong” Đức Giêsu-Kitô, Con của Ngài, và qua Ngài “ở trong” Thiên Chúa-Ba Ngôi, hay nói cách khác, tùy thuộc vào việc chúng ta yêu thương Ngài và tha nhân [“Đây là điều răn của Ngài : chúng ta phải tin vào danh Đức Giêsu-Kitô, Con của Ngài, và phải yêu thương nhau. Ai tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.” (3, 23-24a)]; đàng khác, hiệu quả của sự hiệp nhất giữa thân nho và nhành nho đó tất yếu là những hoa trái Thần Khí tình yêu [“Căn cứ vào điều nầy, chúng ta biết được Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, đó là nhờ Thần Khí, Thần Khí Ngài đã ban cho chúng ta.” (3, 24b)]…
2- Sứ điệp cho ngày hôm nay :
(1) Chỉ có thể có một thế giới “mong muốn” (cách chủ quan và vô ích !) phủ nhận và loại trừ Thiên Chúa, chứ không bao giờ có thể có một thế giới ở ngoài Thiên Chúa hay vắng bóng Thiên Chúa được…
(2) Tất cả mọi chọn lựa, mọi sai đi đích thực (Dân thánh, Giáo hội, cộng đoàn, cá nhân, v.v…) đều chỉ có thể diễn ra “trong” Đức Giêsu-Kitô và trong Thần Khí của Ngài mà thôi…
(3) Việc “thuộc về” hay “ở trong” Đức Giêsu-Kitô không hệ tại cơ cấu mà tùy vào tương quan hiện sinh và cụ thể giữa Đức Giêsu-Kitô và con người, và ngược lại…
(4) Cơ sở của sự hiệp nhất toàn thể nhân loại hay Giáo Hội Kitô là Thiên Chúa-Tình Yêu của Đức Giêsu-Kitô, chứ không phải là bất cứ Giáo Hội kitô nào cả (dù đó là Công giáo La mã, hay Chính Thống giáo, Anh Giáo, Tin Lành, v.v…).
Tác giả bài viết: Linh mục Phêrô Nguyễn Thiên Cung
Viết về các thánh tông đồ xem ra như có một cái gì đó luôn thúc bách chúng ta noi gương, bắt chước các Ngài. Bởi vì, các thánh là những con người hoàn toàn làm theo ý Chúa, các Ngài lắng nghe, đón nhận và đi theo Chúa Giêsu. Ca nhập lễ ngày lễ hai thánh tông đồ Philipphê và Giacôbê hậu viết:” Đây là những vị thánh, Chúa đã lấy tình thương tuyển chọn và đã cho các Ngài được vinh quang muôn thuở “.
Nói về các cuộc tuyển chọn, chúng ta luôn ý thức rõ ràng:” Không phải các con đã chọn Thầy, mà chính Thầy đã chọn các con và cất nhắc các con”. Điều đó có nghĩa vấn đề chọn lựa là do Thiên Chúa, Ngài hoàn toàn tự do tuyển chọn, cất nhắc người này người kia. Việc kêu mời các môn đệ cũng thế, mỗi môn đệ đều có hoàn cảnh riêng, đều được gọi mời cách đặc biệt. Thánh Philipphê sinh tại Betsaibê, cùng quê với thánh Phêrô và thánh Anrê. Ngài là môn đệ của thánh Gioan Tẩy Giả và sau này thánh nhân đã trở thành một trong những môn đệ đầu tiên của Chúa Giêsu. Thánh nhân đã chỉ cho Nathan biết Đấng Cứu Thế đã đến và chính Philipphê đã giới thiệu Nathan với Chúa Giêsu. Tin Mừng đã nói lên mối liên hệ mật thiết giữa Chúa Giêsu và Ngài. Điều này chứng tỏ sự diệu kỳ và ơn gọi đặc biệt của thánh Philipphê. Trong cuộc đời theo Chúa Giêsu, thánh Philipphê đã được Chúa yêu thương, bảo Ngài tìm kiếm cho dân chúng thức ăn vì họ theo Chúa, nghe Chúa giảng dạy, quên ăn, quên uống, do đó, họ hầu như đói, khát. Chúa thử lòng để xem thánh Philipphê có kiếm được thức ăn cho đoàn lũ đông đảo ăn không ? Và qua sự cộng tác của một em bé với hai con cá và năm chiếc bánh Chúa đã làm phép lạ để nuôi dân chúng ăn no nê :” số dân là 5.000 người đàn ông, chưa kể đàn bà và trẻ em “. Tin Mừng cũng cho hay chính thánh nhân đã được nhiều người lương dân xúm lại hỏi han và xin Ngài chỉ cho họ thấy Đấng Cứu Thế. Ngay trong bữa tiệc ly, thánh Philipphê đã xin Chúa Giêsu chỉ Thiên Chúa Cha cho Ngài, và các môn đệ khác. Chúa trả lời ngay với thánh nhân:” Ai thấy Ta là thấy Cha của Ta “.
Cũng như các môn đệ khác, khi Chúa Giêsu bị bắt, bị xử án và bị treo trên Thập Giá, thánh Philipphê đã tưởng mọi sự chấm dứt từ đây. Ngài xao xuyến, hoang mang và muốn về lại quê hương cũ của Ngài để tiếp tục làm ăn sinh sống. Nhưng, biến cố ngày lễ Ngũ Tuần đã làm Ngài và các môn đệ hoàn toàn thay đổi, hoàn toàn trở nên người mới. Ngài đã rao giảng, đem đức tin và rửa tội cho toàn thể dân thành Sitti. Hoàn thành công tác và trách nhiệm ở Sitti, thánh nhân đã đi tới miền Hiêrapoli ,xứ Rigie, Ngài đã nhiêt thành, hăng say rao giảng Tin Mừng. Chúa đã thưởng công Ngài và ban cho Ngài triều thiên tử đạo, Ngài đã bị đóng đinh để làm chứng cho Đức Giêsu Kitô. Xác thánh nhân được chôn cất tại Rigie và sau này được cải táng đem về Roma chôn cạnh mồ thánh Giacôbê.
Thánh Giacôbê hậu là anh em họ với Chúa Giêsu. Ngài được gọi là Giacôbê hậu là để phân biệt với thánh Giacôbê con ông Alphê. Thánh Giacôbê hậu là Giám Mục đầu tiên tại Giêrusalem. Sau khi Chúa Phục Sinh, Ngài đã hiện ra với thánh nhân và chính thánh Giacôbê hậu đã viết một bức thư còn lưu lại trong phần Tân Ước. Thánh nhân luôn nhiệt thành loan báo Tin Mừng cho Chúa Giêsu và luôn trung thành với Giáo Lý đức tin. Thánh nhân bị bọn Biệt Phái và những bọn xấu vu khống, tố cáo, kết án, thánh Giacôbê hậu bị chúng xô từ nóc đền thờ xuống đất và chúng ném đá Ngài cho đến chết. Thánh nhân đã noi gương Chúa tha thứ cho những kẻ làm khổ, giết hại Ngài :” Lạy Cha, xin tha cho chúng vì chúng không biết…”.
Cuộc đời của hai thánh Philipphê và Giacôbê hậu đã hoàn toàn làm theo ý Chúa :” Lạy Cha, nếu được thì xin cất chén này khỏi con nhưng đừng theo ý con mà theo ý Cha “. Các Ngài đã đặt sinh mạng của các Ngài trong bàn tay yêu thương của Chúa.
Lạy Chúa, hằng năm Chúa cho chúng con được hân hoan mừng lễ hai thánh tông đồ Philipphê và Giacôbê. Xin Chúa nhận lời các Ngài cầu thay nguyện giúp mà cho chúng con biết thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Giêsu để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa muôn đời.(Lời Nguyện Nhập Lễ, lễhai thánh Philipphê và Giacôbê tông đồ ).
Thánh Philipphê là một trong những Tông đồ đầu tiên của Chúa Giêsu, ngài sinh tại Galilê. Ngay trong những ngày đầu loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi ông theo Người. Có lẽ ngài đã giảng Tin Mừng ở Bắc biển Đông và tử đạo ở Tiểu Á.
Thánh Giacôbê Hậu là người có họ hàng với Chúa Giêsu. Ngài lãnh đạo cộng đoàn tiên khởi tại Giêrusalem. Theo truyền thuyết ngài bị dân Do thái ném đá đến chết vào năm 62 tại Giêrusalem.
Cả hai vị Tông đồ là những mẫu gương tuyệt vời về niềm tin. Các ngài đã hiến thân rao giảng Tin Mừng cho mọi người nhận biết Chúa mà được hạnh phúc. Các ngài là những người trực tiếp chứng kiến việc Chúa Giêsu chịu tử nạn và phục sinh vinh hiển. Các ngài giúp cho mọi người nhận ra Đức Giêsu là Đấng cứu độ qua lời giảng và mạng sống của mình.
Thánh Philipphê xưa kia xin Chúa Giêsu cho được thấy Chúa Cha, chứng tỏ các ngài vẫn chưa hiểu được Thầy đúng mức. Hôm nay đúng ra chúng con đã biết nhiều về Chúa hơn, có kiến thức về triết học, thần học… và nghe mọi lời Chúa dạy dưới ánh sáng Phục Sinh. Tuy nhiên, rõ ràng là các Tông đồ có cảm nghiệm được tình yêu của Chúa Cha và Chúa Giêsu đối với mình thế nào, còn con hôm nay nhiều lúc chỉ tìm kiến thức suông thay vì đi tìm chính Chúa. Xin Chúa cho chúng con biết nhìn lên Thập Giá Chúa và lắng nghe lời giảng của Chúa để hiểu được tình yêu Chúa và chương trình Chúa muốn dành cho từng người chúng con.
Chúa Giêsu luôn ở trong Chúa Cha. Ngài hiện hữu từ đời đời và cùng với Chúa Cha sáng tạo vũ trụ. Hôm nay ngài đến cứu độ chúng ta và cho thấy tình thương của Chúa Cha đố với loài người chúng ta. Thật lạ lùng khôn xiết! Qua Chúa Con, Chúa Cha nhận tất cả mọi người làm con. Phần chúng con phảI biết tin giữ lời Chúa, luôn gắn bó với Chúa Con để khi chúng con chết trong Ngài thì cũng được phục sinh với Ngài và hưởng hạnh phúc thanh nhàn cùng Ngài trên Thiên Quốc.
Thánh Philipphê là người trung gian giới thiệu Chúa cho mọi người: vừa khi được Chúa kêu gọi đã tin vào Chúa Giêsu và tìm Nathanael để giớI thiệu về Chúa Giêsu cho Nathanael cũng được diễm phúc làm môn đệ Chúa. Khi những ngườI Hy lạp muốn gặp Chúa Giêsu, chính Philipphê cùng Andrê dẫn họ đến vớI Chúa Giêsu. Chính ngài cũng xin Chúa Giêsu cho ngài và các Tông đồ thấy Chúa Cha.( Ga 14,7-9).
Về hạnh Thánh Giacôbê, chúng ta thấy :sau khi Chúa Giêsu về trời ngài đã lên tiếng cho những người ngoại giáo được gia nhập Kitô giáo mà không phải cắt bì (Cv 15, 13 -21). Ngài đã đem nhiều người Do thái và cả dân ngoạI trở về chính đạo… Noi gương các ngài, chúng con ý thức nhiệm vụ giớI thiệu Chúa cho mọi người. Xin các ngài giúp chúng con biết kết hiệp với Chúa Giêsu trong mọi việc làm, lời nói và ý tưởng, thông phần vào cuộc khổ nạn và phục sinh của Chúa Giêsu để được chiêm ngưỡng nhan thánh Chúa đời này và đời sau.
lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con trở nên những chứng nhân cho Chúa trước mặt mọi người, sẵn sàng làm chứng cho Chúa trước mặt mọi người chúng con gặp gỡ bằng lời nói hay bằng việc làm trong đời sống hàng ngày: sống đồng tâm nhất trí với nhau trong gia đình, họ đạo vì Chúa Giêsu, biết chia sẻ với anh em vì lòng yêu mến Chúa, biết làm cho gia đình mình hạnh phúc, xã hội được ấm no.
Chúa Nhật Chúa Chiên Lành – Ngày cầu cho ơn Thiên Triệu
Sách Tồng Đồ Công Vụ 4.8-12; Thư Thứ I của Thánh Gioan Tông Đồ 3.1-2
và Phúc Âm Thánh Gioan 10, 1-10
I.Giáo Huấn P.Â.:
Mục tử là:
Người đi qua cửa mà vào ràn chiên.
Được người giữ cửa mở cửa cho vào.
Chiên nhận ra tiếng mục tử và mục tử biết tên chiên mình.
Đi trước để dẫn chiên và chiên đi theo.
Chúa Giêsu là cửa cho chiên ra vào.
Mục tử và chiên phải ra vào bằng cửa ràn chiên.
II.Vấn nạn P.Â.
Chúa Nhật IV Phục Sinh
Chúa Nhật Chúa Chiên Lành
Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu.
Chúa Nhật IV Phục Sinh - Chúa Nhật Chúa Chiên Lành
Ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, Chúa Giêsu được gọi là chủ chiên của đàn chiên Giáo Hội. Trước Công Đồng Vatican II, năm 1962-1965, Chúa Nhật Chúa Chiên Lành được xếp vào Chúa Nhật II Phục Sinh, gọi là Quasimodo, coi như Chúa Nhật thường (low Sunday) Gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên lành vì xử dụng bài Phúc Âm Thánh Gioan chương 10. Trong đó Chúa Giêsu được diễn tả như một Mục Tử mẫu mực nhân hậu: Ngài thí mạng sống vì đàn chiên Giáo Hội. Ngày nay, theo lịch Phụng Vụ mới, Chúa Nhật Chúa Chiên Lành được xếp vào Chúa Nhật IV Phục Sinh và được dành riêng để cầu nguyện cho ơn thiên triệu.
Ngày 11 tháng 4 năm 1964 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI thiết lập và dành riêng ngày Chúa Nhật IV Phục Sinh hàng năm, ngày Chúa Chiên Lành để cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Xin Chúa Giêsu là Chúa Chiên nhân hậu chọn gọi nhiều người tiếp tục theo bước chân Ngài, làm mục tử nhân hậu chăm sóc đàn chiên Chúa. Ngày 11 tháng 4 năm 1964 là ngày Chúa Nhật IV Phục Sinh đầu tiên để cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Trong ngày ấy Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã dâng lời cầu nguyện như sau, như một tuyên bố chính thức thành lập ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu:
“Lạy Chúa Giêsu, Vị Mục Tử thần thánh, ngày xưa Ngài đã kêu gọi các tông đồ và biến đổi các Ngài thành những ngư phủ đánh bắt người. Ngày nay, xin Ngài tiếp tục lôi cuống các bạn trẻ đầy lòng sốt mến và quảng đại, để họ cũng trở thành những người nối bước Ngài và thi hành sứ mạng Mục Tử trên chúng tôi. Amen”
Tính cho đến nay, đã bốn mươi bảy năm, các Đức Giáo Hoàng tiếp tục dành riêng ngày Chúa Nhật IV Phục Sinh hảng năm, Ngài Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và đời sống tận hiến trong các dòng tu. Từ ơn kêu gọi phát xuất từ tiếng La tinh VOCARE, trước thế kỷ thứ 16, có nghĩa là ơn Chúa kêu gọi phổ quát: Mọi người được mời gọi để nhận lãnh ơn cứu độ. Nói theo Thánh Phaolô: Con người được tiền định để nhận lãnh ơn cứu độ (Thư gửi Êphêssô 1.11) Nên ơn thiên triệu tiềm ẩn trong sáng tạo. Sáng tạo là để cứu độ, để được hưởng hạnh phúc chứ không phải để bị tiêu diệt hay luận phạt. Mọi người đểu được kêu gọi để chọn một bậc sống phù hợp với khả năng Chúa ban để cộng tác với Thiên Chúa trong chương trình sáng tạo và cứu độ nầy. Nhiều người được kêu gọi sống đời sống gia đình. Nhưng cũng có những người chọn đời sống độc thân giáo sĩ hay tu sĩ. Tất cả đều là ơn kêu gọi và có giá trị ngang nhau. Nhưng qua thời gian, người ta hiểu từ vocare theo nghĩa hẹp hơn: Ơn Chúa kêu gọi để chọn bậc sống tu trì cụ thể và đặc biệt là ơn gọi linh mục để tiếp tục công việc chăn dắt đàn chiên Chúa.
Tại sao phải dành riêng ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành để cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu? Xin lấy Giáo Hội Công Giáo Canada với những con số cụ thể làm thì dụ, để chúng ta sẽ thấy rất cần thiết cầu nguyện cho ơn thiên triệu trong suốt năm và đặc biệt trong ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Tờ Western Catholic Report số ra ngày 29.3.2010 cho biết số linh mục Công Giáo ở Canada đã giảm từ con số 9,594 linh mục năm 1998 xuống còn 7,546 linh mục năm 2009. Tính ra chỉ trong 11 năm, số linh mục tại Canada giảm đi 2,048 linh mục.
Số nữ tu giảm từ 24,040 nữ tu năm 1998 xuống 16,945 nữ tu năm 2009. Số nam tu sĩ từ 2,284 nam tu năm 1998 xuống chỉ còn 1,511 nam nu năm 2009. Vì thiếu hụt nhân sự và giảm dân số nơi các vùng nông thôn, nên trong những năm qua, có đến 638 nhà thờ ở các giáo họ buộc phải đóng cửa.
Hình ảnh mục tử:
Do Thái, xứ sở du mục, hình ảnh mục tử đi trước hướng dẫn đàn chiên từ đồng cỏ nầy sang đồng cỏ khác, cũng như đi tìm suối nước mát giữa sa mạc nắng cháy rất quen thuộc và được xử dụng để so sánh giữa Thiên Chúa là Mục Tử nhân hậu trong Cựu Ước và Chúa Giêsu là Mục Tử hy sinh mạng sống cho đàn chiên trong Tân Ước.
Trong Kinh Thánh Cựu Ước:
Rất nhiều nhân vật Cựu Ước là những người chăn chiên:
Abel em của Cain, con Adam và Evà sinh sống bằng nghề chăn chiên và đã giết chiên béo tốt nhất bầy đàn để tế lễ Chúa. Sáng Thế Ký 4:2
Tổ phụ Abraham trong Sáng Thế Ký 12:16 mô tả là một mục tử.
Giacóp hay cũng gọi là Israel trong Sáng Thế Ký 30:31 cũng là mục tử.
Môsê chăn chiên cho nhạc phụ Giêthrô suốt 40 sau khi giết chết người Ai Cập và trốn vào sa mạc. Sách Xuất Hành3:1
Thánh Vương Đavít làm nghề chăn chiên: Ông không có mặt khi Samuel đến nhà Ba Ông là Jesse để xức đầu phong vương. Sách Samuel quyển I, chương 16. Ông đã giết chết tướng Goliát bằng ná bắn chim được xử dụng khi lang thang trong đồng vắng. Sách Samuel quyển I, chương 17
Do đó Đa-vít đã sáng tác thánh vịnh 23, Mục tử nhân hậu thật ý nghĩa về tình thương Chúa như một mục tử chăm lo cho đàn chiên
CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương CHÚA ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.
Cựu Ước rất dồi dào hình ảnh mục tử qua các tổ phụ cũng như qua Thánh Vịnh , qua các Tiên Tri diễn tả: Thiên Chúa là Mục tử nhân hậu và quyền năng, s8ãn sàng bảo vệ đàn chiên “Còn dân Chúa, Người dẫn đi như thể đàn cừu, đem họ vào sa mạc chẳng khác bầy chiên, đưa họ đi an toàn, chẳng có chi phải sợ…” (Tv 78: 52-53), hay: “Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40: 11).
Trong Kinh Thánh Tân Uớc
Những người chăn chiên nghèo khổ đã được thiên sứ báo tin vui Đấng Cứu Thế giáng sinh được tường thuật trong Luca 2:8-20.
Nhiều bản văn Kinh Thánh qui hướng về Chúa Giêsu như mục tử nhân hậu: biết chiên, chiên nghe tiếng chủ chiên, chủ chiên đi trước hướng dẫn chiên, bảo vệ chiên và hy sinh mạng sống cho đàn chiên. Phúc Âm Thánh Gioan 10,11-18
“Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được."
Mục tử nhân hậu quí trọng chiên, đi tìm chiên lạc và vui mừng khi chiên an toàn trong bầy đàn, diễn tả trong Phúc Âm Thánh Luca 15,4-10 "Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói : 'Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.' Vậy, tôi nói cho các ông hay : trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.
"Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được ? Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói : 'Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.' Cũng thế, tôi nói cho các ông hay : giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối."
Thường người ta thấy người chăn chiên được trang bị như sau:
Một túi làm bằng da thú để đựng đồ ăn khô cho nhiều ngày lang thang trong đồng vằng.
Ná bắn đá (Dây da có túi đựng đá) dùng chống thủ rừng bảo vệ bản thân và đàn chiên
Ống sáo để thổi giải trí và mua vui cho đàn chiên
Một áo khoát dày để đáp ban đêm
Một gậy có ngoéo ở đầu để lôi chiên rơi xuống hố sâu.
Vai trò mục tử được mô tả trong Kinh Thánh:
Người chăn chiên phải mang gậy, nhận quyền lãnh đạo để dẫn dắt chiên và bảo vệ chiên
Mọi thuế thập phân đánh vào bò và chiên dê, tức là một phần mười của mọi vật đi qua dưới cây gậy người chăn, đều là của rất thánh dâng ĐỨC CHÚA. (Sách Lê vi 27,32)
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. (Thánh Vịnh 23,4)
Người chăn chiên phải sống và phải cắm lều giữa đàn chiên “Nhà tôi ở đã bị giật tung, và đem đi như lều mục tử. Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang mải dệt đời mình, bỗng nhiên bị tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ. Từ sáng tới khuya, Chúa làm con hao mòn sinh lực. (Sách Isaia 38 :12)
Người chăn chiên phải yêu thương và chăm sóc chiên:
Biết chiên mình: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Phúc Âm Gioan 10,14-15)
Đi trước hướng dẫn chiên:
“Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ” (gioan 10, 4-5)
Tìm đồng cỏ xanh và suối nước trong cho đàn chiên
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. (Thánh Vịnh 23,20
Kiểm soát cho đủ số chiên khi trở về ràn.
Tại các thành miền núi, các thành vùng Sơ-phê-la, và các thành vùng Ne-ghép, trong đất Ben-gia-min, vùng phụ cận Giê-ru-sa-lem và tại các thành Giu-đa, chiên cừu vẫn còn được lùa qua, dưới bàn tay của người kiểm số chiên - ĐỨC CHÚA phán như vậy (Giêmia 33,13)
Canh giữ đàn chiên trong đêm tối:
“Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật.” Phúc Âm Luca 2:8)
Người chăn chiên phải dịu dàng
Ông Gia-cóp trả lời : "Ngài biết là lũ trẻ thì yếu ớt, còn tôi phải lo cho đám chiên và bò đang cho con bú ; nếu hối thúc chúng, dù một ngày thôi, thì chiên dê sẽ chết hết. Vậy xin ngài cứ vượt lên phía trước tôi tớ ngài; phần tôi, tôi sẽ đi chậm chậm, theo chân đàn vật đi trước và theo chân lũ trẻ, cho tới khi đến với ngài tại Xê-ia." (Sáng Thế Ký 33,13-14)
Người chăm chiên không bỏ chiên mà giữ mạng sống, nhưng phải hy sinh mạng sống vì đàn chiên, phải chống dã thú bảo vệ đàn chiên:
Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên.
Đây là những hình ảnh quen thuộc xảy ra hàng ngày trên đất Do Thái, một đất nước cằn cỗi, đá nhiều hơn đất, nên số khá đông dân chúng sống về chăn nuôi bầy đàn.
Đây là một hình ảnh đẹp nói lên sự gắn bó giữa người chăn chiên và đàn chiên.
Đây là một hình ảnh hoàn hảo để diễn đạt Chúa Giêsu, như mục tử nhân hậu dám hy sinh mạng sống để bảo vệ đàn chiên Giáo Hội.
Giám Mục địa phận và Linh Mục trong nhiệm vụ cha sở được coi là mục tử đàn chiên Chúa phải BIẾT chiên mình. Không có cách nào biết người khác cho bằng gần gũi, tiếp xúc thường xuyên và sinh hoạt chung với nhau. Nên Giáo Luật điều 533 yêu cầu Cha sở phải sống trong nhà xứ gần nhà thờ và không được vắng giáo xứ quá một tháng trong một năm. Cha sở được yêu cầu phải thăm viếng mục vụ gia đình giáo dân và quan tâm đặc biệt những gia đình thiếu thốn nghèo khổ hay nguội lạnh bê trễ.
Giám Mục địa phận và Linh Mục trong nhiệm vụ cha sở được coi là mục tử đàn chiên Chúa phải BAN cho chiên mình sự sống đời đời. Giáo Luật điều 519 nói rằng: Những vị chủ chăn trong Giáo Hội phải thực hành quyền giảng dạy, thánh hóa và hướng dẫn giáo dân. Đây là những phương dược ban cho giáo dân sự sống đời đời. Quyền thánh hóa, tức nhiệm vụ ban bí tích: Linh mục trong nhiệm vụ Cha sở không có quyền từ chối ban bí tích cho người có đủ điều kiện để lãnh nhận (lấy nguồn từ Canonical and Pastoral Guide for Parishes được Hội Đồng Giám Mục Giáo Tỉnh Québec chấp thuận)
III.Thựcc hành P.Â.:
1.Chiên nào có chủ chiên nấy. Chiên nào có chuồng nấy.
Giáo Hội là một tổ chức trần thế. Cơ cấu tổ chức rất chặt chẻ như sau:
Giáo Hội chia làm nhiều địa phận. Đứng đầu mỗi địa phận có một Giám Mục địa phận, người kế vị các Thánh Tông Đồ và là chủ chăn của địa phận đó. Đức Giám Mục địa phận có quyền tư pháp, lập pháp và hành pháp trên địa phận mình. Tất cả mọi nhân viên của địa phận phải tùy thuộc vào Đức Giám Mục địa phận.
Mỗi địa phận chia làm nhiều giáo xứ và được trao cho một cha sở chăm sóc. Chúng ta sống trong lãnh thổ của giáo xứ nào thì thuộc quyển cha sở đó và là đàn chiên của địa phận đó.
Mỗi địa phận được coi như một giáo đoàn hay một giáo hội địa phương, độc lập trên nhiều phương diện. Nên chúng ta không thấy Đức Giám Mục của địa phận nầy chen vào sinh hoạt nội bộ của địa phận khác. Chúng ta cũng không thấy cha sở họ đạo nầy sang điều hành công việc mục vụ của giáo xứ khác. Nên chiên có chủ chiên riêng. Chiên có bầy đàn và chuồng chiên riêng của mình.
Người công giáo Việt Nam đã rời khỏi Việt Nam thì không còn thuộc đàn chiên của Giáo Hội Việt Nam nữa. Các chủ chiên của chúng ta bây giờ là nơi mà chúng ta định cư. Nên chúng ta không thấy các Đức Giám Mục bên Việt Nam sang đây để hướng dẫn hay dìu dắt chúng ta. Các Ngài có sang thăm viếng hữu nghị hay thăm mục vụ di dân, nhưng không là chuyện lãnh đạo hay điều hành đàn chiên bên nầy.
Chúng ta cũng vậy. Chúng ta không buộc và cũng không nên chen vào nội bộ sinh hoạt của Giáo Hội Việt Nam bên Việt Nam. Bên đó có chủ chiên và đàn chiên riêng. Nên tránh những can thiệp quá đáng như:
Yêu cầu Hội Đồng Giám Mục Việt Nam lên tiếng bênh vực lập trường nầy, chủ trương nọ.... tất cả đều không đúng, không cần thiết và nhiều khi bất kính! Chúng ta lấy quyền gì để yêu cầu các Giám Mục Việt Nam làm chuyện chúng ta muốn? Chúng ta có trách nhiệm hơn những người đang có trách nhiệm là các Giám Mục chăng? Chúng ta có biết con người và hoàn cảnh chính trị Việt Nam hơn các Giám Mục Việt Nam đang ở Việt Nam không? Chúng ta có biết rằng: Hội đồng Giám Mục Việt nam và từng cá nhân Giám Mục Việt nam là những vị chủ chăn rất trung thành với Chúa và với Giáo Hội không?
Nên chúng ta, là người Việt Nam ly hương, không còn thuộc đàn chiên của Giáo Hội Việt nam nữa, không nên có những thái độ hay lời lẽ xúc phạm đến người khác. Trái lại, với lương tâm công giáo, với tình yêu Giáo Hội Việt Nam, chúng nên thay vào đó bằng lời cầu nguyện và bằng những nâng đỡ tinh thần vật chất như nhiều nơi, nhiều chỗ đã làm và đang làm. Như vậy, vị chủ chiên tối cao là Chúa Giêsu sẽ vui lòng hơn khi thấy chúng ta sống tinh thần hiệp nhất của một đàn chiên và một chủ chiên.
2.Giáo dân có quyền được chăm sóc:
Xin trưng dẫn những khoản Giáo Luật sau đây để cho giáo dân và linh mục, chiên và chủ chiên thấy rõ nhiệm vụ và quyền hạn của mình trong giáo xứ hay nói theo Phúc Âm hôm nay là trong ràn chiên. Thấy rõ để tôn trọng và mang lại lợi ích cho nhau.
Cá nhân của mọi tín hữu kể cả các Giáo Hoàng và Giám Mục được gọi chung là Christifideles, Christian faithful hay người tin Chúa Kitô. Những tín hữu nầy hiện diện thể lý trong Giáo Hội nhờ bí tích Rửa tội. Nên Đức Giáo Hoàng, Giám Mục, linh mục và giáo dân không ai có tư cách pháp nhân cả. Juridicial person hay tư cách pháp nhân là người vô hình thí dụ Giáo Triều Rôma, Hội Đồng Giám Mục hay Dòng Tu…Người có tư cách pháp nhân được làm chủ tài sản của Giáo Hội. Nên linh mục không bao giờ làm chủ nhà thờ hay nhà xứ mà là Giáo Xứ hay địa phận.
Nên Cha Xứ không tự quyền sang nhượng hay mua bán tài sản của Giáo Hội.
Ðiều 96: Do bí tích rửa tội, con người được sát nhập vào Giáo Hội của Ðức Kitô và thủ đắc nhân cách trong Giáo Hội, với những nghĩa vụ và quyền lợi riêng của các tín hữu Kitô, chiếu theo điều kiện của mỗi người, miễn là họ duy trì sự hiệp thông Giáo Hội và không bị ngăn trở bởi một chế tài đã được tuyên một cách hợp lệ.
Ðiều 208: Giữa các tín hữu, nhờ sự tái sinh trong Ðức Kitô, mọi người đều bình đẳng với nhau về phẩm giá và hành động. Nhờ sự bình đẳng này, các tín hữu cộng tác với nhau xây dựng thân thể Ðức Kitô, tùy theo điều kiện và chức vụ riêng của từng người.
Chúng ta thuộc giáo xứ nào? Có hai loại giáo xứ:
Tòng thổ: giáo dân được qui định theo lãnh thổ phân chia của giáo xứ.
Tòng nhân: Không lãnh thổ, nhưng giáo xứ căn cứ trên sắc dân cùng ngôn ngữ, thí dụ Việt, Miên, Tàu..
Có rất nhiều linh mục dòng được làm Cha Sở chăm sóc giáo xứ. Có vài cách hiểu không đúng hay gặp phải:
Linh mục dòng hiểu là mình phải lãnh đạo giáo xứ theo ý bề trên dòng mình. Không đúng! Dòng tu có nhà dòng chứ không có giáo xứ. Giáo xứ thuộc Giám Mục địa phận. Nên Cha xứ phải dưới quyền lãnh đạo của Giám Mục địa phận (GL. 515)
Khi có Cha xứ là Cha dòng. Giáo dân gọi là “giáo xứ dòng” Không đúng! Có hai loại giáo xứ thôi: tòng nhân và tòng thổ, có giáo xứ trao phó cho nhà dòng, nhưng không có giáo xứ dòng.
Không nhất thiết phải thuộc giáo xứ tòng nhân, nhưng buộc phải thuộc giáo xứ tòng thổ. Thí dụ: Giáo dân Việt Nam sống cách xa nhà thờ Việt Nam 50 hay 100 cây số. Nên sinh hoạt và theo giáo xứ mà người đó đang có cư sở.
Khi có cư sở nơi nào là thuộc giáo xứ đó và có quyền lợi của một giáo dân. Ghi danh hay làm sổ gia đình công giáo là điều tốt, nhưng không là luật đòi buộc để thành giáo dân của giáo xứ. Tôi ở đâu là tôi thuộc giáo xứ đó và tôi có quyền hưởng ân huệ thiêng liêng từ cha sở đó. Cha sở phải rửa tội hay chôn cất hay làm hôn phối cho ai có cư sở trong giáo xứ mình. Không có quyền từ chối vì lý do không ghi danh hay không đóng góp.
Ðiều 102: (1) Cư-sở được thủ đắc do việc trú ngụ trong lãnh thổ của một giáo xứ, hay ít là trong lãnh thổ của một giáo phận, kèm theo ý định ở lại đó vĩnh viễn nếu không có gì ngăn trở, hoặc việc trú ngụ đã kéo dài trên năm năm tròn.
Ðiều 107: (1) Do cư sở và bán cư sở mà mỗi người có cha sở và Bản Quyền riêng.
Ðiều 515: (1) Giáo xứ là một cộng đoàn tín hữu được thiết lập cách bền vững ở trong Giáo Hội địa phương, và việc săn sóc mục vụ được ủy thác cho Cha Sở làm chủ chăn riêng, dưới quyền của Giám Mục giáo phận.
Ðiều 518: Theo luật chung, giáo xứ phải có tính cách tòng thổ, nghĩa là bao gồm tất cả các tín hữu thuộc một địa sở nhất định; tuy nhiên ở đâu thấy thuận lợi, cũng có thể thiết lập các giáo xứ tòng nhân xét vì ly do lễ điển, ngôn ngữ, quốc tịch của các tín hữu thuộc về một lãnh thổ hay kể cả vì một lý do nào khác.
Ðiều 212: (2) Các tín hữu có quyền trình bày cho các Chủ chăn của Giáo Hội, các nhu cầu của mình, nhất là các nhu cầu thiêng liêng, và các ước vọng của mình.
(3) Tùy theo kiến thức, chuyên môn và tài ba của mình, họ có quyền, và đôi khi kể cả bổn phận, bày tỏ cho các Chủ chăn có chức thánh biết ý kiến của mình liên quan tới lợi ích của Giáo Hội. Họ cũng có quyền biểu lộ ý kiến của mình cho các tín hữu khác, miễn là bảo vệ sự vẹn toàn của đức tin và luân lý, cũng như sự tôn kính đối với các Chủ chăn, và để ý đến công ích và phẩm giá của tha nhân.
Ðiều 213: Các tín hữu có quyền được lãnh nhận từ các Chủ chăn sự hỗ trợ nhờ các của cải thiêng liêng của Giáo Hội, nhất là Lời Chúa và các Bí tích.