CHÚA NHẬT IV PHỤC SINH NĂM B
Chúa Nhật Chúa Chiên Lành – Ngày cầu cho ơn Thiên Triệu
Sách Tồng Đồ Công Vụ 4.8-12; Thư Thứ I của Thánh Gioan Tông Đồ 3.1-2
I. Giáo Huấn P.Â.:
Mục tử là:
Người đi qua cửa mà vào ràn chiên.
Được người giữ cửa mở cửa cho vào.
Chiên nhận ra tiếng mục tử và mục tử biết tên chiên mình.
Đi trước để dẫn chiên và chiên đi theo.
Chúa Giêsu là cửa cho chiên ra vào.
Mục tử và chiên phải ra vào bằng cửa ràn chiên.
II. Vấn nạn P.Â.
Chúa Nhật IV Phục Sinh
Chúa Nhật Chúa Chiên Lành
Ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu.
Chúa Nhật IV Phục Sinh - Chúa Nhật Chúa Chiên Lành
Ngay từ thời Giáo Hội sơ khai, Chúa Giêsu được gọi là chủ chiên của đàn chiên Giáo Hội. Trước Công Đồng Vatican II, năm 1962-1965, Chúa Nhật Chúa Chiên Lành được xếp vào Chúa Nhật II Phục Sinh, gọi là Quasimodo, coi như Chúa Nhật thường (low Sunday) Gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên lành vì xử dụng bài Phúc Âm Thánh Gioan chương 10. Trong đó Chúa Giêsu được diễn tả như một Mục Tử mẫu mực nhân hậu: Ngài thí mạng sống vì đàn chiên Giáo Hội. Ngày nay, theo lịch Phụng Vụ mới, Chúa Nhật Chúa Chiên Lành được xếp vào Chúa Nhật IV Phục Sinh và được dành riêng để cầu nguyện cho ơn thiên triệu.
Ngày 11 tháng 4 năm 1964 Đức Giáo Hoàng Phaolô VI thiết lập và dành riêng ngày Chúa Nhật IV Phục Sinh hàng năm, ngày Chúa Chiên Lành để cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Xin Chúa Giêsu là Chúa Chiên nhân hậu chọn gọi nhiều người tiếp tục theo bước chân Ngài, làm mục tử nhân hậu chăm sóc đàn chiên Chúa. Ngày 11 tháng 4 năm 1964 là ngày Chúa Nhật IV Phục Sinh đầu tiên để cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Trong ngày ấy Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã dâng lời cầu nguyện như sau, như một tuyên bố chính thức thành lập ngày thế giới cầu nguyện cho ơn thiên triệu:
“Lạy Chúa Giêsu, Vị Mục Tử thần thánh, ngày xưa Ngài đã kêu gọi các tông đồ và biến đổi các Ngài thành những ngư phủ đánh bắt người. Ngày nay, xin Ngài tiếp tục lôi cuống các bạn trẻ đầy lòng sốt mến và quảng đại, để họ cũng trở thành những người nối bước Ngài và thi hành sứ mạng Mục Tử trên chúng tôi. Amen”
Tính cho đến nay, đã bốn mươi bảy năm, các Đức Giáo Hoàng tiếp tục dành riêng ngày Chúa Nhật IV Phục Sinh hảng năm, Ngài Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, để cầu nguyện cho ơn thiên triệu linh mục và đời sống tận hiến trong các dòng tu. Từ ơn kêu gọi phát xuất từ tiếng La tinh VOCARE, trước thế kỷ thứ 16, có nghĩa là ơn Chúa kêu gọi phổ quát: Mọi người được mời gọi để nhận lãnh ơn cứu độ. Nói theo Thánh Phaolô: Con người được tiền định để nhận lãnh ơn cứu độ (Thư gửi Êphêssô 1.11) Nên ơn thiên triệu tiềm ẩn trong sáng tạo. Sáng tạo là để cứu độ, để được hưởng hạnh phúc chứ không phải để bị tiêu diệt hay luận phạt. Mọi người đểu được kêu gọi để chọn một bậc sống phù hợp với khả năng Chúa ban để cộng tác với Thiên Chúa trong chương trình sáng tạo và cứu độ nầy. Nhiều người được kêu gọi sống đời sống gia đình. Nhưng cũng có những người chọn đời sống độc thân giáo sĩ hay tu sĩ. Tất cả đều là ơn kêu gọi và có giá trị ngang nhau. Nhưng qua thời gian, người ta hiểu từ vocare theo nghĩa hẹp hơn: Ơn Chúa kêu gọi để chọn bậc sống tu trì cụ thể và đặc biệt là ơn gọi linh mục để tiếp tục công việc chăn dắt đàn chiên Chúa.
Tại sao phải dành riêng ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành để cầu nguyện cho ơn Thiên Triệu? Xin lấy Giáo Hội Công Giáo Canada với những con số cụ thể làm thì dụ, để chúng ta sẽ thấy rất cần thiết cầu nguyện cho ơn thiên triệu trong suốt năm và đặc biệt trong ngày Chúa Nhật Chúa Chiên Lành. Tờ Western Catholic Report số ra ngày 29.3.2010 cho biết số linh mục Công Giáo ở Canada đã giảm từ con số 9,594 linh mục năm 1998 xuống còn 7,546 linh mục năm 2009. Tính ra chỉ trong 11 năm, số linh mục tại Canada giảm đi 2,048 linh mục.
Số nữ tu giảm từ 24,040 nữ tu năm 1998 xuống 16,945 nữ tu năm 2009. Số nam tu sĩ từ 2,284 nam tu năm 1998 xuống chỉ còn 1,511 nam nu năm 2009. Vì thiếu hụt nhân sự và giảm dân số nơi các vùng nông thôn, nên trong những năm qua, có đến 638 nhà thờ ở các giáo họ buộc phải đóng cửa.
Hình ảnh mục tử:
Do Thái, xứ sở du mục, hình ảnh mục tử đi trước hướng dẫn đàn chiên từ đồng cỏ nầy sang đồng cỏ khác, cũng như đi tìm suối nước mát giữa sa mạc nắng cháy rất quen thuộc và được xử dụng để so sánh giữa Thiên Chúa là Mục Tử nhân hậu trong Cựu Ước và Chúa Giêsu là Mục Tử hy sinh mạng sống cho đàn chiên trong Tân Ước.
Trong Kinh Thánh Cựu Ước:
Rất nhiều nhân vật Cựu Ước là những người chăn chiên:
Abel em của Cain, con Adam và Evà sinh sống bằng nghề chăn chiên và đã giết chiên béo tốt nhất bầy đàn để tế lễ Chúa. Sáng Thế Ký 4:2
Giacóp hay cũng gọi là Israel trong Sáng Thế Ký 30:31 cũng là mục tử.
Môsê chăn chiên cho nhạc phụ Giêthrô suốt 40 sau khi giết chết người Ai Cập và trốn vào sa mạc. Sách Xuất Hành3:1
Thánh Vương Đavít làm nghề chăn chiên: Ông không có mặt khi Samuel đến nhà Ba Ông là Jesse để xức đầu phong vương. Sách Samuel quyển I, chương 16. Ông đã giết chết tướng Goliát bằng ná bắn chim được xử dụng khi lang thang trong đồng vắng. Sách Samuel quyển I, chương 17
Do đó Đa-vít đã sáng tác thánh vịnh 23, Mục tử nhân hậu thật ý nghĩa về tình thương Chúa như một mục tử chăm lo cho đàn chiên
CHÚA là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương CHÚA ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.
Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi.
Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng.
Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm.
Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù.
Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa.
Lòng nhân hậu và tình thương CHÚA ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời,
và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.
Cựu Ước rất dồi dào hình ảnh mục tử qua các tổ phụ cũng như qua Thánh Vịnh , qua các Tiên Tri diễn tả: Thiên Chúa là Mục tử nhân hậu và quyền năng, s8ãn sàng bảo vệ đàn chiên “Còn dân Chúa, Người dẫn đi như thể đàn cừu, đem họ vào sa mạc chẳng khác bầy chiên, đưa họ đi an toàn, chẳng có chi phải sợ…” (Tv 78: 52-53), hay: “Như mục tử, Chúa chăn giữ đoàn chiên của Chúa, tập trung cả đoàn dưới cánh tay. Lũ chiên con, Người ấp ủ vào lòng, bầy chiên mẹ, cũng tận tình dẫn dắt” (Is 40: 11).
Trong Kinh Thánh Tân Uớc
Những người chăn chiên nghèo khổ đã được thiên sứ báo tin vui Đấng Cứu Thế giáng sinh được tường thuật trong Luca 2:8-20.
Nhiều bản văn Kinh Thánh qui hướng về Chúa Giêsu như mục tử nhân hậu: biết chiên, chiên nghe tiếng chủ chiên, chủ chiên đi trước hướng dẫn chiên, bảo vệ chiên và hy sinh mạng sống cho đàn chiên. Phúc Âm Thánh Gioan 10,11-18
“Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên. Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên. Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.
Tôi còn có những chiên khác không thuộc ràn này. Tôi cũng phải đưa chúng về. Chúng sẽ nghe tiếng tôi. Và sẽ chỉ có một đoàn chiên và một mục tử. Sở dĩ Chúa Cha yêu mến tôi, là vì tôi hy sinh mạng sống mình để rồi lấy lại. Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được."
Mục tử nhân hậu quí trọng chiên, đi tìm chiên lạc và vui mừng khi chiên an toàn trong bầy đàn, diễn tả trong Phúc Âm Thánh Luca 15,4-10 "Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ? Tìm được rồi, người ấy mừng rỡ vác lên vai. Về đến nhà, người ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói : 'Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được con chiên của tôi, con chiên bị mất đó.' Vậy, tôi nói cho các ông hay : trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn.
"Hoặc người phụ nữ nào có mười đồng quan, mà chẳng may đánh mất một đồng, lại không thắp đèn, rồi quét nhà, moi móc tìm cho kỳ được ? Tìm được rồi, bà ấy mời bạn bè, hàng xóm lại, và nói : 'Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng quan tôi đã đánh mất.' Cũng thế, tôi nói cho các ông hay : giữa triều thần Thiên Chúa, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối."
Thường người ta thấy người chăn chiên được trang bị như sau:
Một túi làm bằng da thú để đựng đồ ăn khô cho nhiều ngày lang thang trong đồng vằng.
Ná bắn đá (Dây da có túi đựng đá) dùng chống thủ rừng bảo vệ bản thân và đàn chiên
Ống sáo để thổi giải trí và mua vui cho đàn chiên
Một áo khoát dày để đáp ban đêm
Một gậy có ngoéo ở đầu để lôi chiên rơi xuống hố sâu.
Vai trò mục tử được mô tả trong Kinh Thánh:
Người chăn chiên phải mang gậy, nhận quyền lãnh đạo để dẫn dắt chiên và bảo vệ chiên
Mọi thuế thập phân đánh vào bò và chiên dê, tức là một phần mười của mọi vật đi qua dưới cây gậy người chăn, đều là của rất thánh dâng ĐỨC CHÚA. (Sách Lê vi 27,32)
Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. (Thánh Vịnh 23,4)
Người chăn chiên phải sống và phải cắm lều giữa đàn chiên “Nhà tôi ở đã bị giật tung, và đem đi như lều mục tử. Lạy Chúa, con như người thợ dệt, đang mải dệt đời mình, bỗng nhiên bị tay Chúa cắt đứt ngay hàng chỉ. Từ sáng tới khuya, Chúa làm con hao mòn sinh lực. (Sách Isaia 38 :12)
Người chăn chiên phải yêu thương và chăm sóc chiên:
Biết chiên mình: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi, như Chúa Cha biết tôi, và tôi biết Chúa Cha, và tôi hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Phúc Âm Gioan 10,14-15)
Đi trước hướng dẫn chiên:
“Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ” (gioan 10, 4-5)
Tìm đồng cỏ xanh và suối nước trong cho đàn chiên
Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người. (Thánh Vịnh 23,20
Kiểm soát cho đủ số chiên khi trở về ràn.
Tại các thành miền núi, các thành vùng Sơ-phê-la, và các thành vùng Ne-ghép, trong đất Ben-gia-min, vùng phụ cận Giê-ru-sa-lem và tại các thành Giu-đa, chiên cừu vẫn còn được lùa qua, dưới bàn tay của người kiểm số chiên - ĐỨC CHÚA phán như vậy (Giêmia 33,13)
Canh giữ đàn chiên trong đêm tối:
“Trong vùng ấy, có những người chăn chiên sống ngoài đồng và thức đêm canh giữ đàn vật.” Phúc Âm Luca 2:8)
Người chăn chiên phải dịu dàng
Ông Gia-cóp trả lời : "Ngài biết là lũ trẻ thì yếu ớt, còn tôi phải lo cho đám chiên và bò đang cho con bú ; nếu hối thúc chúng, dù một ngày thôi, thì chiên dê sẽ chết hết. Vậy xin ngài cứ vượt lên phía trước tôi tớ ngài; phần tôi, tôi sẽ đi chậm chậm, theo chân đàn vật đi trước và theo chân lũ trẻ, cho tới khi đến với ngài tại Xê-ia." (Sáng Thế Ký 33,13-14)
Người chăm chiên không bỏ chiên mà giữ mạng sống, nhưng phải hy sinh mạng sống vì đàn chiên, phải chống dã thú bảo vệ đàn chiên:
Người làm thuê, vì không phải là mục tử, và vì chiên không thuộc về anh, nên khi thấy sói đến, anh bỏ chiên mà chạy. Sói vồ lấy chiên và làm cho chiên tán loạn, vì anh ta là kẻ làm thuê, và không thiết gì đến chiên.
Đây là những hình ảnh quen thuộc xảy ra hàng ngày trên đất Do Thái, một đất nước cằn cỗi, đá nhiều hơn đất, nên số khá đông dân chúng sống về chăn nuôi bầy đàn.
Đây là một hình ảnh đẹp nói lên sự gắn bó giữa người chăn chiên và đàn chiên.
Đây là một hình ảnh hoàn hảo để diễn đạt Chúa Giêsu, như mục tử nhân hậu dám hy sinh mạng sống để bảo vệ đàn chiên Giáo Hội.
Giám Mục địa phận và Linh Mục trong nhiệm vụ cha sở được coi là mục tử đàn chiên Chúa phải BIẾT chiên mình. Không có cách nào biết người khác cho bằng gần gũi, tiếp xúc thường xuyên và sinh hoạt chung với nhau. Nên Giáo Luật điều 533 yêu cầu Cha sở phải sống trong nhà xứ gần nhà thờ và không được vắng giáo xứ quá một tháng trong một năm. Cha sở được yêu cầu phải thăm viếng mục vụ gia đình giáo dân và quan tâm đặc biệt những gia đình thiếu thốn nghèo khổ hay nguội lạnh bê trễ.
Giám Mục địa phận và Linh Mục trong nhiệm vụ cha sở được coi là mục tử đàn chiên Chúa phải BAN cho chiên mình sự sống đời đời. Giáo Luật điều 519 nói rằng: Những vị chủ chăn trong Giáo Hội phải thực hành quyền giảng dạy, thánh hóa và hướng dẫn giáo dân. Đây là những phương dược ban cho giáo dân sự sống đời đời. Quyền thánh hóa, tức nhiệm vụ ban bí tích: Linh mục trong nhiệm vụ Cha sở không có quyền từ chối ban bí tích cho người có đủ điều kiện để lãnh nhận (lấy nguồn từ Canonical and Pastoral Guide for Parishes được Hội Đồng Giám Mục Giáo Tỉnh Québec chấp thuận)
III. Thựcc hành P.Â.:
1. Chiên nào có chủ chiên nấy. Chiên nào có chuồng nấy.
Giáo Hội là một tổ chức trần thế. Cơ cấu tổ chức rất chặt chẻ như sau:
Giáo Hội chia làm nhiều địa phận. Đứng đầu mỗi địa phận có một Giám Mục địa phận, người kế vị các Thánh Tông Đồ và là chủ chăn của địa phận đó. Đức Giám Mục địa phận có quyền tư pháp, lập pháp và hành pháp trên địa phận mình. Tất cả mọi nhân viên của địa phận phải tùy thuộc vào Đức Giám Mục địa phận.
Mỗi địa phận chia làm nhiều giáo xứ và được trao cho một cha sở chăm sóc. Chúng ta sống trong lãnh thổ của giáo xứ nào thì thuộc quyển cha sở đó và là đàn chiên của địa phận đó.
Mỗi địa phận được coi như một giáo đoàn hay một giáo hội địa phương, độc lập trên nhiều phương diện. Nên chúng ta không thấy Đức Giám Mục của địa phận nầy chen vào sinh hoạt nội bộ của địa phận khác. Chúng ta cũng không thấy cha sở họ đạo nầy sang điều hành công việc mục vụ của giáo xứ khác. Nên chiên có chủ chiên riêng. Chiên có bầy đàn và chuồng chiên riêng của mình.
Người công giáo Việt Nam đã rời khỏi Việt Nam thì không còn thuộc đàn chiên của Giáo Hội Việt Nam nữa. Các chủ chiên của chúng ta bây giờ là nơi mà chúng ta định cư. Nên chúng ta không thấy các Đức Giám Mục bên Việt Nam sang đây để hướng dẫn hay dìu dắt chúng ta. Các Ngài có sang thăm viếng hữu nghị hay thăm mục vụ di dân, nhưng không là chuyện lãnh đạo hay điều hành đàn chiên bên nầy.
Chúng ta cũng vậy. Chúng ta không buộc và cũng không nên chen vào nội bộ sinh hoạt của Giáo Hội Việt Nam bên Việt Nam. Bên đó có chủ chiên và đàn chiên riêng. Nên tránh những can thiệp quá đáng như:
Yêu cầu Hội Đồng Giám Mục Việt Nam lên tiếng bênh vực lập trường nầy, chủ trương nọ.... tất cả đều không đúng, không cần thiết và nhiều khi bất kính! Chúng ta lấy quyền gì để yêu cầu các Giám Mục Việt Nam làm chuyện chúng ta muốn? Chúng ta có trách nhiệm hơn những người đang có trách nhiệm là các Giám Mục chăng? Chúng ta có biết con người và hoàn cảnh chính trị Việt Nam hơn các Giám Mục Việt Nam đang ở Việt Nam không? Chúng ta có biết rằng: Hội đồng Giám Mục Việt nam và từng cá nhân Giám Mục Việt nam là những vị chủ chăn rất trung thành với Chúa và với Giáo Hội không?
Nên chúng ta, là người Việt Nam ly hương, không còn thuộc đàn chiên của Giáo Hội Việt nam nữa, không nên có những thái độ hay lời lẽ xúc phạm đến người khác. Trái lại, với lương tâm công giáo, với tình yêu Giáo Hội Việt Nam, chúng nên thay vào đó bằng lời cầu nguyện và bằng những nâng đỡ tinh thần vật chất như nhiều nơi, nhiều chỗ đã làm và đang làm. Như vậy, vị chủ chiên tối cao là Chúa Giêsu sẽ vui lòng hơn khi thấy chúng ta sống tinh thần hiệp nhất của một đàn chiên và một chủ chiên.
2. Giáo dân có quyền được chăm sóc:
Xin trưng dẫn những khoản Giáo Luật sau đây để cho giáo dân và linh mục, chiên và chủ chiên thấy rõ nhiệm vụ và quyền hạn của mình trong giáo xứ hay nói theo Phúc Âm hôm nay là trong ràn chiên. Thấy rõ để tôn trọng và mang lại lợi ích cho nhau.
Cá nhân của mọi tín hữu kể cả các Giáo Hoàng và Giám Mục được gọi chung là Christifideles, Christian faithful hay người tin Chúa Kitô. Những tín hữu nầy hiện diện thể lý trong Giáo Hội nhờ bí tích Rửa tội. Nên Đức Giáo Hoàng, Giám Mục, linh mục và giáo dân không ai có tư cách pháp nhân cả. Juridicial person hay tư cách pháp nhân là người vô hình thí dụ Giáo Triều Rôma, Hội Đồng Giám Mục hay Dòng Tu…Người có tư cách pháp nhân được làm chủ tài sản của Giáo Hội. Nên linh mục không bao giờ làm chủ nhà thờ hay nhà xứ mà là Giáo Xứ hay địa phận.
Nên Cha Xứ không tự quyền sang nhượng hay mua bán tài sản của Giáo Hội.
Ðiều 96: Do bí tích rửa tội, con người được sát nhập vào Giáo Hội của Ðức Kitô và thủ đắc nhân cách trong Giáo Hội, với những nghĩa vụ và quyền lợi riêng của các tín hữu Kitô, chiếu theo điều kiện của mỗi người, miễn là họ duy trì sự hiệp thông Giáo Hội và không bị ngăn trở bởi một chế tài đã được tuyên một cách hợp lệ.
Ðiều 208: Giữa các tín hữu, nhờ sự tái sinh trong Ðức Kitô, mọi người đều bình đẳng với nhau về phẩm giá và hành động. Nhờ sự bình đẳng này, các tín hữu cộng tác với nhau xây dựng thân thể Ðức Kitô, tùy theo điều kiện và chức vụ riêng của từng người.
Chúng ta thuộc giáo xứ nào? Có hai loại giáo xứ:
Tòng thổ: giáo dân được qui định theo lãnh thổ phân chia của giáo xứ.
Tòng nhân: Không lãnh thổ, nhưng giáo xứ căn cứ trên sắc dân cùng ngôn ngữ, thí dụ Việt, Miên, Tàu..
Có rất nhiều linh mục dòng được làm Cha Sở chăm sóc giáo xứ. Có vài cách hiểu không đúng hay gặp phải:
Linh mục dòng hiểu là mình phải lãnh đạo giáo xứ theo ý bề trên dòng mình. Không đúng! Dòng tu có nhà dòng chứ không có giáo xứ. Giáo xứ thuộc Giám Mục địa phận. Nên Cha xứ phải dưới quyền lãnh đạo của Giám Mục địa phận (GL. 515)
Khi có Cha xứ là Cha dòng. Giáo dân gọi là “giáo xứ dòng” Không đúng! Có hai loại giáo xứ thôi: tòng nhân và tòng thổ, có giáo xứ trao phó cho nhà dòng, nhưng không có giáo xứ dòng.
Không nhất thiết phải thuộc giáo xứ tòng nhân, nhưng buộc phải thuộc giáo xứ tòng thổ. Thí dụ: Giáo dân Việt Nam sống cách xa nhà thờ Việt Nam 50 hay 100 cây số. Nên sinh hoạt và theo giáo xứ mà người đó đang có cư sở.
Khi có cư sở nơi nào là thuộc giáo xứ đó và có quyền lợi của một giáo dân. Ghi danh hay làm sổ gia đình công giáo là điều tốt, nhưng không là luật đòi buộc để thành giáo dân của giáo xứ. Tôi ở đâu là tôi thuộc giáo xứ đó và tôi có quyền hưởng ân huệ thiêng liêng từ cha sở đó. Cha sở phải rửa tội hay chôn cất hay làm hôn phối cho ai có cư sở trong giáo xứ mình. Không có quyền từ chối vì lý do không ghi danh hay không đóng góp.
Ðiều 102: (1) Cư-sở được thủ đắc do việc trú ngụ trong lãnh thổ của một giáo xứ, hay ít là trong lãnh thổ của một giáo phận, kèm theo ý định ở lại đó vĩnh viễn nếu không có gì ngăn trở, hoặc việc trú ngụ đã kéo dài trên năm năm tròn.
Ðiều 107: (1) Do cư sở và bán cư sở mà mỗi người có cha sở và Bản Quyền riêng.
Ðiều 515: (1) Giáo xứ là một cộng đoàn tín hữu được thiết lập cách bền vững ở trong Giáo Hội địa phương, và việc săn sóc mục vụ được ủy thác cho Cha Sở làm chủ chăn riêng, dưới quyền của Giám Mục giáo phận.
Ðiều 518: Theo luật chung, giáo xứ phải có tính cách tòng thổ, nghĩa là bao gồm tất cả các tín hữu thuộc một địa sở nhất định; tuy nhiên ở đâu thấy thuận lợi, cũng có thể thiết lập các giáo xứ tòng nhân xét vì ly do lễ điển, ngôn ngữ, quốc tịch của các tín hữu thuộc về một lãnh thổ hay kể cả vì một lý do nào khác.
Ðiều 212: (2) Các tín hữu có quyền trình bày cho các Chủ chăn của Giáo Hội, các nhu cầu của mình, nhất là các nhu cầu thiêng liêng, và các ước vọng của mình.
(3) Tùy theo kiến thức, chuyên môn và tài ba của mình, họ có quyền, và đôi khi kể cả bổn phận, bày tỏ cho các Chủ chăn có chức thánh biết ý kiến của mình liên quan tới lợi ích của Giáo Hội. Họ cũng có quyền biểu lộ ý kiến của mình cho các tín hữu khác, miễn là bảo vệ sự vẹn toàn của đức tin và luân lý, cũng như sự tôn kính đối với các Chủ chăn, và để ý đến công ích và phẩm giá của tha nhân.
Ðiều 213: Các tín hữu có quyền được lãnh nhận từ các Chủ chăn sự hỗ trợ nhờ các của cải thiêng liêng của Giáo Hội, nhất là Lời Chúa và các Bí tích.
Lm. Phêrô Trần thế Tuyên
0 nhận xét:
Đăng nhận xét