CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN B
Lời Chúa: Gn 3,1-5.10; 1Cr 7,29-31; Mc 1,14-20
Mục lục
1. Thay đổi bản thân để đổi thay thế giới (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên, Gp. Hải Phòng)
2. Đổi mới cuộc đời (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Chúa Nhật 3 Thường Niên_B (Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse, Tulsa)
4. Con người mới của Nước Trời (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí, Gp. Xuân Lộc)
5. Sứ mạng của tôi (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
6. Nước Thiên Chúa đã đến (PM. Cao Huy Hoàng)
7. Nhìn về tương lai (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
8. Bướng bỉnh và ngoan ngoãn (Trầm Thiên Thu)
9. Thời kỳ đã mãn và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần (Lm. Gioan Ngyễn Văn Ty, SDB)
10. Lý tưởng theo Chúa (Lm. Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc)
11. Sequela Christi – Đi theo Đức Kitô (Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ.)
.
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Ngày xửa ngày xưa, có một vị vua cai
quản một vương quốc rộng lớn bao la. Ông muốn đích thân đi thăm những
miền xa xôi của đất nước. Khi về đến nhà, đôi bàn chân ông sưng tấy và
đau đớn, vì đường xá gập ghềnh sỏi đá. Ông liền ra lệnh tất cả các con
đường trong vương quốc phải trải bằng da lông thú để nếu ông đi thăm
vương quốc thì chân ông không còn bị đau. Cả triều đình đều thấy đó là
một điều vô lý, nhưng chẳng ai dám lên tiếng. Sau cùng, có một vị quan
dũng cảm đã nói với vua: “Tâu bệ hạ, tại sao vương quốc của chúng ta
lại phải tiêu tốn ngân khố một cách vô ích như vậy? Tại sao bệ hạ lại
không cho cắt những miếng da bò rồi phủ quanh đôi chân trần của mình?
Như vậy, chân Người sẽ không còn bị đau khi đi qua những con đường gập
ghềnh sỏi đá, mà cả vương quốc sẽ tiết kiệm được thời gian và tiền bạc?”. Nhà vua rất ngạc nhiên trước lời đề nghị của vị quan, và thế là đôi giày da đầu tiên của nhân loại ra đời.
Có nhiều người muốn bắt cả thế giới theo
mình, trong khi nếu mình thay đổi cách sống và quan niệm cá nhân, thì
sẽ cảm nhận thế giới hoàn toàn khác. Thay đổi bản thân, trong ngôn ngữ
của Tin Mừng, là thành tâm sám hối. Ngôn sứ Giona được Chúa sai đến
thành Ninivê để kêu gọi dân thành sám hối. Vào thời đó, thành phố này có
tiếng là tội lỗi và hung bạo, đến nỗi khi ông Giona nghe thấy Chúa sai
mình đến đó thì tìm cách chạy trốn vì sợ hãi. Nhưng lạ thay, khi nghe
lời Gioan rao giảng, mọi người, từ vua cho tới dân đã ăn chay sám hối
theo lệnh của vua. Nhờ lòng sám hối, dân thành đã không bị án phạt giáng
xuống.
Chúa Giêsu khởi đầu sứ mạng loan báo Tin
Mừng bằng lời kêu gọi sám hối. Lời kêu gọi này còn được lặp đi lặp lại
nhiều lần, ở mọi nơi Người đặt chân tới. Sám hối là một phần quan trọng
của giáo huấn Tin Mừng. Lời kêu gọi sám hối của Chúa Giêsu đi liền với
lời mời gọi tin vào Tin Mừng Người rao giảng. Tin vào Tin Mừng là nhận
biết Chúa Cha, đấng bao dung nhân hậu. Ngài luôn chờ đợi chúng ta trở về
để đón nhận sự tha thứ. Tin Mừng kể lại có những người rất tội lỗi,
nhưng đã mở lòng đón nhận giáo huấn của Chúa và được ơn thứ tha. Lịch sử
Giáo Hội cũng làm chứng cho chúng ta, rất nhiều tội nhân đã sám hối và
được nên thánh.
Sám hối là khiêm tốn nhìn nhận những sai
sót lỗi lầm của mình, đồng thời hứa với Chúa sẽ thay đổi cuộc sống của
mình nên tốt hơn. Một khi chúng ta thay đổi cuộc sống và thay đổi cách
nhìn của mình đối với những người xung quanh, chúng ta sẽ nhận ra những
điều tốt đẹp nơi người khác. Thay đổi cuộc sống sẽ giúp chúng ta thấy
cuộc đời lạc quan đáng yêu hơn, đồng thời thúc đẩy chúng ta đóng góp
phần mình để nhân lên những điều thiện hảo trong cuộc sống. Giống như vị
vua trong câu chuyện trên đây, khi ông bọc đôi chân bằng miếng da bò,
thì đi đâu cũng thấy êm ái và sạch sẽ. Khi trong tâm trí chúng ta có
những tâm tình tốt đẹp, chúng ta sẽ khám phá những nét đẹp tiềm ẩn nơi
mọi người mọi vật xung quanh.
Sám hối còn là đoạn tuyệt với quá khứ để
khởi đầu một hành trình mới theo chân Đức Giêsu. Thánh Máccô kể với
chúng ta trong Tin Mừng hôm nay về việc Chúa gọi các môn đệ đầu tiên.
Anrê và Simon, Giacôbê và Gioan là những người đã can đảm từ bỏ cuộc
sống cũ để khởi đầu một hành trình mới. Tiếng gọi “Hãy theo tôi” có sức
thuyết phục kỳ diệu, khiến các ông sẵn sàng từ bỏ những người thân yêu
và nghề nghiệp bao năm gắn bó. Sau này, nhiều khi phải đối diện với
những khó khăn, chống đối và thiếu thốn, nhưng các ông không hề hối tiếc
vì sự lựa chọn này: “Thưa Thày, bỏ Thày thì chúng con biết đến với ai? Thày mới có những lời ban sự sống đời đời” (Ga 6,67)
Cũng như một cỗ máy cần được bảo dưỡng
luôn luôn, cũng như những cây nho cần được thường xuyên cắt tỉa, tâm hồn
chúng ta phải được thanh tẩy mỗi ngày, để nhờ đó, chúng ta được biến
đổi, nên giống Chúa hơn. Lời kêu gọi thay đổi cuộc đời luôn âm vang
trong cuộc sống của người tín hữu chúng ta. Đây không phải là một khẩu
hiệu, mà là một lời khuyên rất thiết thực, vì “thời gian chắng còn bao lâu”.
Thánh Phaolô đã dùng cách nói rất cụ thể để nói với chúng ta hãy lựa
chọn những điều tốt nhất và lâu bền cho mình, bởi vì bộ mặt thế gian này
đang qua đi, nên “những ai có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc
hãy làm như không khóc; ai vui mừng như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy
làm như không có gì cả…”.
“Mỗi vị thánh đều có một quá khứ; mỗi tội nhân đều có một tương lai”.Đừng
có ai mặc cảm về đời sống của mình mà không mạnh dạn thay đổi cuộc đời.
Nếu mạnh dạn tiến bước, chúng ta chẳng còn là tội nhân, mà sẽ là những
vị thánh, nhờ lòng bao dung thứ tha và ơn phù trợ của Thiên Chúa. “Tâm
bình, thế giới bình”, cuộc đời này sẽ thay đổi, khởi đi từ sự thay đổi
trong chính con người mỗi chúng ta.
Về mục lục.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Nhiều lần đài phát thanh, truyền
hình, trong mục nói về giáo dục trẻ em, giới thiệu chương trình hoạt
động của anh Thảo Đàn ở thành phố Hồ chí Minh. Trước đây, Thảo Đàn là
một trẻ của đường phố, bỏ nhà đi lang thang bụi đời, tệ hơn nữa, vướng
vào nghiện hút. Nhưng khi hiểu được tác hại của ma tuý, anh quyết tâm
cai nghiện. Với ý chí cương quyết, anh đã hoàn toàn dứt bỏ được ma tuý.
Chừa được ma tuý rồi, anh không chỉ hài lòng với việc làm lại cuộc đời
cho bản thân, nhưng còn muốn dùng kinh nghiệm của mình để giúp đỡ các
trẻ em đường phố. Với sự hỗ trợ của Nhà Nước và các tổ chức từ thiện,
anh mở ra một trung tâm qui tụ 200 trẻ em đường phố. Tại đây, anh giáo
dục cho các em hiểu biết những nguy hiểm đang rình rập các em, giúp các
em bảo vệ quyền lợi của mình và nhất là tìm cách đưa các em hội nhập vào
đời sống xã hội.
Điều mà Thảo Đàn đã làm cho bản thân
mình và đang muốn làm cho các trẻ em đường phố, đó là đổi mới đời sống.
Không biết anh có đạo hay không, nhưng anh đang thực hiện Lời Chúa trong
các bài sách thánh hôm nay. Trong bài đọc thứ nhất, tiên tri Gio-na kêu
gọi dân thành Ninivê đổi mới đời sống để được tha thứ. Trong bài Tin
Mừng, Đức Giêsu kêu gọi dân Do thái đổi mới đời sống để đón nhận Nước
Chúa đang đến. Đáp lại lời Người, các môn đệ bước theo Đức Giêsu trong
một đời sống mới. Cuộc đổi mới được tiến hành qua ba bước.
Bước thứ nhất: Nhận biết mình tội lỗi.
Tội lỗi như một cơn mê làm ta đắm đuối
không nhận biết tình trạng tâm hồn của mình. Muốn đổi mới, cần phải thức
tỉnh, nhìn rõ sự thực về mình, thấy rõ tình trạng tội lỗi, hiểu biết sự
nguy hại của tội. Thảo Đàn bừng tỉnh sau những lầm lỡ, nhận thức mình
đang đứng bên bờ vực thẳm, nên đã kịp dừng chân. Dân thành Ninivê, sau
khi nghe tiên tri Giona rao giảng, ý thức về tình trạng nguy ngập của
thành, nên đã chấm dứt tình trạng tội lỗi. Để biết rõ tình trạng tâm
hồn, để nhận biết tội lỗi, cần phải siêng năng xét mình. Xét mình giống
như ngọn đèn pha soi vào tất cả những ngõ ngách trong tâm hồn, phơi bày
ra tất cả những gì còn ẩn giấu. Xét mình giống như cái cuốc đào bới
những tầng lớp sâu thẳm của tâm hồn để lộ ra những tội lỗi còn bị thời
gian, sự quên lãng và sự vô tình vùi lấp.
Bước thứ hai: Sám hối.
Khi đã nhận biết tội lỗi, tâm hồn phải
tiến tới một thái độ tích cực hơn, đó là sám hối. Nhận thức tội lỗi
giống như ta nhìn thấy một căn nhà rác rưới bẩn thỉu. Sám hối là bắt tay
vào quét dọn sạch sẽ. Sám hối như giòng nước gột rửa linh hồn. Sám hối
như chiếc dao mổ của bác sĩ cắt bỏ những ung nhọt gieo mầm mống bệnh
tật. Sám hối càng mãnh liệt, tội lỗi càng lùi xa. Sám hối càng sâu xa,
linh hồn càng mau chóng hồi sinh. Nhờ sám hối sâu xa, Thảo Đàn đã từ bỏ
con đường nghiện ngập. Nhờ sám hối mãnh liệt, dân thành Ninivê đã bảo
nhau, từ người già đến em bé đều xức tro, ăn chay cầu nguyện, quyết tâm
từ bỏ con đường tội lỗi. Tâm hồn sám hối là tâm hồn được chuẩn bị sẵn
sàng để đón nhận ơn Chúa.
Bước thứ ba: Đổi mới cuộc đời.
Sám hối chân thành bao giờ cũng đi đến
đổi mới cuộc đời. Vì sám hối là muốn đoạn tuyệt với con đường xưa cũ để
bước vào một con đường mới. Vì tâm hồn sám hối không những muốn sửa chữa
lại những lỗi lầm quá khứ mà còn quyết tâm xây dựng một tương lai tươi
mới,trong sạch hơn, tốt đẹp hơn, ích lợi hơn. Vì muốn hoàn toàn đổi mới,
Thảo Đàn không chỉ tránh xa nhưng còn dấn thân giúp người khác đâú
tranh chống tệ nạn xã hội. Vì muốn đổi mới cuộc đời, các tông đồ đã từ
bỏ nếp sống cũ, từ giã những người thân, bỏ hết tài sản để lên đường đi
theo Chúa. Con đường mới là con đường theo thánh ý Chúa, con đường dẫn
ta đi trong tình yêu mến Chúa và yêu mến anh em. Tình yêu mến sẽ làm cho
đời sống ta có ý nghĩa và trở nên phong phú vì sẽ đem lại những hoa quả
thiêng liêng. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ đón nhận được Nước Chúa
đang đến. Bước đi trên con đường mới, ta sẽ góp phần đem Nước Chúa đến
với anh em.
Đầu năm mới, ai cũng có ước mong mọi sự
mới mẻ. Không gì đẹp hơn một tâm hồn đổi mới. Để đổi mới tâm hồn, ta hãy
nhận biết tội lỗi và ăn năn sám hối. Với ơn Chúa giúp và với quyết tâm
đổi mới, ta sẽ nhìn thấy những việc cần phải làm. Với những việc làm do
Chúa Thánh Thần hướng dẫn, ta sẽ thực sự bước vào Năm Mới với cả tâm hồn
đã được đổi mới.
Lạy Chúa Thánh Thần, xin hãy đổi mới mọi sự trong ngoài của chúng con.
GỢI Ý CHIA SẺ
1/ Đức Thánh Cha viết cho giới trẻ:
“Quả thật, Đức Giê su là người bạn khó tính nhất. Người chỉ cho ta những
đỉnh cao và đòi ta phải ra khỏi chính mình để gặp Người.” Hiện nay, Đức
Giê su đang mời bạn chinh phục những đỉnh cao nào?
2/ Để đổi mới cuộc đời, bạn phải từ
bỏ nhiều điều. Nhưng quan trọng hơn cả là từ bỏ chính mình. Bạn có kinh
nghiệm gì về cái tôi của bạn. Cái tôi ấy ra sao (cứng cỏi, bướng bỉnh,
khép kín, tự ái, tự mãn…..).
3/ Chừa bỏ tật xấu có dễ không? Ta nên có thái độ nào đối với người nghiện hút, rượu chè?
Về mục lục.
Lm. Antôn, giáo xứ thánh Giuse
Ông bà anh chị em thân mến. Tôi xin được
chia sẻ với ông bà anh chị em về một số linh mục cùng lớp của tôi trong
đại chủng viện thánh Meinrad. Trước hết là anh Vince 33 tuổi. Trước khi
vào đại chủng viện, anh đã theo học và ra trường đại học Pittsburgh,
sau đó anh là giáo viên dạy học và tình nguyện giúp hội thể thao trung
học và đại học. Đến anh Mike 32 tuổi. Anh ra trường đại học Hardvard,
sau đó trở thành một luật sư và tình nguyện làm việc cho một trung tâm
người vô gia cư tại Baltimore. Tiếp đến là anh George 28 tuổi theo học
đại học Syracure, và đã đi làm 5 năm là một người điều khiển hàng không,
và tình nguyện giúp nhóm tình nguyện dòng Tên. Sau đó là anh John ra
trường đại học California và làm việc cho hãng Texas Instruments trong
công việc của một kỹ sư, và tình nguyện giúp các nhóm trẻ trong vùng.
Sau cùng là anh David 30 tuổi trở lại đạo Công giáo từ giáo phái Tin
lành Baptist. Cha của anh là một mục sư. Anh ra trường đại học Alabama
và đã phục vụ trong ngành Hải quân 5 năm, và sau đó trở thành một
physical therapist, người tập cử động thân thể và tình nguyện giúp những
người già trong các nhà dưỡng lão.
Ông bà anh chị em thân mến. Đây chỉ là 5
người trong số trăm ngàn người nam nữ bình thường trên thế giới mà
Thiên Chúa kêu gọi phục vụ trong đời sống linh mục và tu sĩ ngày nay như
Ngài đã kêu gọi Giôna trong thời Cựu ước, và An-rê, Phê-rô, Gioan và
Gia-cô-bê trong thời Tân ước.
Chúng ta nghe câu chuyện Chúa gọi ngôn
sứ Giôna đi rao giảng lời Chúa cho dân thành Ni-ni-vê nhiều lần. Thiên
Chúa sai ông Giôna đi kêu gọi mọi người trong thành phố Ni-ni-vê ăn năn
thống hối tội lỗi của họ. Thành phố Ni-ni-vê là thủ đô của dân ngoại đạo
As-si-ri-a, kẻ thù của dân Do thái. Khi được Chúa kêu mời, Giôna đã
thành thật thưa với Chúa “Lạy Chúa, con à, sao Chúa lại kêu con.” Giôna
biết mình không có khả năng học hành, không có tài hùng biện, thuyết
phục hay giảng dạy. Ông sợ sẽ bị cười chê, nhạo báng, và hơn hết, ông sợ
cho tính mạng của mình trong tay quân thù. Vì vậy, Giôna đã xuống
thuyền trốn đi, nhưng Thiên Chúa đã cho bão tố nổi lên, những người trên
thuyền biết ông chạy trốn Thiên Chúa, sợ bị vạ lây, nên họ đã quăng ông
xuống biển và bị cá ông nuốt vào bụng 3 ngày, sau đó, đã nhả ông vào
một hoang địa. Bài đọc một hôm nay tiếp tục câu chuyện trên. Giôna biết
không thể nào từ khước, trốn chạy trước lời Chúa kêu gọi, nhận biết mình
yếu kém, nên đã khiêm nhường vâng lời. Thật là một điều kinh ngạc, lạ
lùng và khó tưởng tượng trước thái độ tin nhận, và hành động ăn năn,
thống hối của dân chúng khi nghe lời giảng dạy của ông.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu
kêu gọi những người yếu kém khác cộng tác với Ngài trong sứ mệnh rao
giảng ơn cứu độ của Thiên Chúa Cha, và xây dựng Nước Chúa trần gian. Nếu
Chúa Giêsu muốn thực hiện những công việc to lớn và quan trọng này
trong vòng 36 tháng hay 3 năm, thì chúng ta nghĩ Chúa Giêsu phải chọn
những người có danh vọng, tài giỏi, học thức và có uy tín, hay tìm những
người có tài hùng biện, hoặc một người có khả năng lãnh đạo giỏi. Nhưng
Chúa không làm như vậy. Chúa bắt đầu bằng 4 người đánh cá không có,
hoặc chỉ có một chút học thức giới hạn. Sau đó, Chúa càng làm cho chúng
ta sững sờ, chọn thêm 8 người khác, nếu theo cái nhìn, theo tiêu chuẩn
của chúng ta, thì họ chẳng giống ai, có nghĩa là, họ không có tài năng
gì xuất sắc về lãnh đạo hay không có danh vọng gì để lôi cuốn, thuyết
phục người khác.
Thật vậy, chúng ta không xa lạ gì với
xuất xứ và nguồn gốc của các tông đồ. Phần đông họ là nông dân và ngư
dân, làm nghề đánh cá. Của cải tiền bạc không có nhiều, vốn liếng học
vấn chẳng bao nhiêu, địa vị và danh vọng trong xã hội thì cũng không có.
Họ được chọn từ đám đông quần chúng, giai cấp của những người lao động
chân tay, không được mấy ai kính nể, coi trọng. Nếu nhìn kỹ vào từng con
người của các tông đồ, chúng ta thấy họ cũng không thiếu gì các đam mê,
tật xấu, nóng nẩy, ích kỷ, tham lam, ghen ghét. Có thể nói đây là nhóm
tiêu biểu cho những người thấp kém trong xã hội. Nhiều khi chúng ta thắc
mắc tại sao Chúa lại mời gọi những người này? Không biết Chúa có biết,
có hiểu và thấy rõ con người của họ không? Chúa thấy và thấy rất rõ,
nhưng Người vẫn chọn họ, vì sao? Vì tiêu chuẩn, đường lối của Thiên Chúa
thì khác với đường lối và tiêu chuẩn của con người chúng ta. Chúng ta
phải lưu ý điểm tối quan trọng này là: điều Thiên Chúa cần ở họ, không
phải là quá khứ hay những gì họ đang có, nhưng là những người họ sẽ trở
thành và những gì họ sẽ có. Họ kém cỏi và nhiều khuyết điểm thật, nhưng
với ơn sủng và sự giáo huấn của Chúa, họ sẽ biến đổi và có khả năng thực
hiện và chu toàn được sứ mệnh, công việc của Chúa trao phó.
Ông bà anh chị em thân mến. Câu chuyện
ông Giôna và các tông đồ là một sự kích lệ cho chúng ta, những người
bình thường trong xã hội, yếu kém và đầy khuyết điểm. Ngày nay Thiên
Chúa tiếp tục kêu gọi tất cả mọi người, không phân biệt nam nữ, già trẻ,
và trao ban cho chúng ta sứ mệnh rao giảng Tin mừng và xây dựng Nước
Chúa. Tuy nhiên, chúng ta thi hành và chu toàn sứ mệnh này theo đời sống
của mỗi người khác nhau. Nếu là bậc cha mẹ có bao giờ quí vị chia sẻ
hay dạy bảo con cái cầu nguyện để được hướng dẫn khi chọn nghề nghiệp,
công việc tương lai không? Có bao giờ quí vị cầu nguyện với Chúa và cố
gắng hết sức tạo điều kiện, hay làm một việc gì cụ thể, hay làm gương
sáng và giúp cho một đứa cháu, đưa con được Chúa gọi phục vụ Chúa trong
đời sống linh mục hay tu sĩ không? Nếu các bạn là thanh thiên nam nữ độc
thân, quí bạn có bao giờ cầu nguyện xin Chúa hướng dẫn để chọn đúng
nghề nghiệp, công việc và hướng đi cho tương lai của mình không? Hay có
bao giờ chúng ta cầu nguyện với Chúa, xin Chúa chỉ bảo chúng ta phải làm
gì để cộng tác với Chúa trong sứ mệnh rao giảng Tin mừng không? Chúng
ta có cầu nguyện xin Chúa chỉ bảo để biết hy sinh phục vụ Chúa trong
những công việc mục vụ trong giáo xứ hay trong giáo hội không? Có bao
giờ chúng ta cầu nguyện xin Chúa giúp chúng ta tình nguyện làm một công
việc gì hữu ích cho tha nhân không? Hay chúng ta chỉ ích kỷ xin Chúa ban
cho chúng ta ơn nọ ơn kia. Hy sinh tình nguyện phục vụ, chúng ta sẽ
nhận ra lời kêu gọi, nhận ra ân sủng của Chúa, để cảm tạ Chúa đã ban cho
chúng ta khả năng, và cảm nhận được ý nghĩa, giá trị cuộc sống của
mình.
Thiên Chúa tiếp tục kêu gọi mọi người
không phân biệt nam nữ, già trẻ ngày nay như Ngài đã kêu gọi những môn
đệ ngày xưa. Xin Chúa ban cho chúng ta một tâm hồn rộng mở để lắng nghe
lời kêu gọi của Chúa, và có tấm lòng hy sinh, nhiệt thành, vui mừng và
can đảm trở thành những cánh tay nối dài của Chúa trong công cuộc loan
báo Tin mừng và xây dựng Nước Chúa. Thiên Chúa không chú ý đến quá khứ
và không cần những gì chúng ta đang có. Chúa cần tấm long chân thành của
chúng ta, và Chúa sẽ dùng ân sủng của Chúa biến đổi những gì chúng ta
đang có, để chúng ta thực hiện thánh ý của Chúa và chu toàn sứ mệnh của
Ngài.
Về mục lục.
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Vào những ngày cuối năm, cho dù bận rộn
với việc làm ăn buôn bán, tổng kết công việc, nhưng không ai trong chúng
ta quên được một việc hết sức quan trọng để đón năm mới, đó là dọn dẹp,
chỉnh trang nhà cửa và mua sắm những bộ quần áo mới. Ai cũng mong đợi
một năm mới sẽ đem đến nhiều điều mới mẻ từ nhà cửa, cảnh vật đến con
người đều tốt đẹp hơn năm cũ. Họ hy vọng rằng với sự mới mẻ đó, mọi
người sẽ bắt đầu một năm mới, một công việc mới với một tinh thần mới và
một kết quả mới hơn.
Nhưng có một thực tế, nhiều người chỉ lo
quét dọn, trang hoàng nhà cửa bên ngoài mà không có một thay đổi nào
trong suy nghĩ, trong cách sống. Vì thế những ngày tết qua đi, mọi sự
lại trở về như cũ. Người ta nói rằng : Thế giới này chỉ thay đổi khi
chính mỗi người chịu thay đổi. Thế nên, nếu mỗi người không chấp nhận
thay đổi thì cuộc sống và thế giới này sẽ mãi chẳng đổi thay nên tốt hơn
được.
Thưa quý OBACE, hôm nay Tin Mừng cho
chúng ta thấy Chúa Giêsu đã bắt đầu cuộc sống công khai sau khi Gioan
Tiền hô bị nộp. Sứ mạng của Gioan đã kết thúc, thời của Gioan cũng đã
chấm dứt để bắt đầu một thời mới. Thời đại mới này là thời đại của Đấng
Mesia cứu thế là Đức Giêsu. Ngài đến để khai mở một thời đại mới mà Ngài
gọi đó là Nước Trời. Thời đại này là thời đại của lòng Chúa xót thương,
thời đại của Tin Mừng cứu độ mà Đức Giêsu là Đấng rao giảng và chính
Ngài là Tin Mừng cứu độ cho cả nhân loại. Tin Mừng này là tin vui cho
nhân loại vì chính Thiên Chúa đã đến với con người, để giải thoát con
người khỏi nô lệ của tội lỗi và sự chết, đem lại cho con người một thời
kỳ mới, một cuộc sống mới. Tin vào Tin Mừng là tin vào chính con người
của Đức Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Cứu độ.
Thời kỳ đã mãn và triều đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Với sự xuất hiện của Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã thực hiện lời hứa cứu độ
từ ngàn xưa. Ngài thiết lập triều đại của Thiên Chúa trên thế gian này.
Triều đại của Thiên Chúa là Nước Trời mà Chúa Giêsu loan báo không chỉ
là hạnh phúc trong thế giới mai sau, nhưng đã được khởi đầu ngay hôm
nay, trong cuộc sống này cho những ai tin và đón nhận Ngài.
Để có thể đón nhận và sống trong Triều
đại mới, đòi mỗi người phải sám hối, phải thay đổi cuộc sống từ suy nghĩ
đến hành động cho phù hợp với những đòi hỏi của Tin Mừng. Sám hối không
chỉ là việc dành cho những kẻ có tội, mà là lời mời gọi được gửi đến
hết mọi người. Sám hối không chỉ là hối hận về những tội lỗi của mình,
mà còn phải là một quyết tâm thay đổi nếp sống cho tốt hơn, đẹp hơn,
xứng đáng hơn.
Thánh Marcô cho thấy đã có những chàng
trai đầu tiên đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu một cách nhanh chóng và
vô điều kiện. Họ là những ngư phủ đang chài lưới để kiếm sống. Vậy mà
khi Chúa Giêsu đi ngang qua, chỉ với một lời mời gọi : Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá. Lập tức các ông bỏ chài lưới mà theo Người.
Có lẽ các chàng trai này cũng đã ít nhiều nghe nói về thầy Giêsu vừa
mới xuất hiện. Ngài rao giảng một giáo lý hoàn toàn mới mẻ. Ngài dạy một
nếp sông mới hoàn toàn khác với nếp sống cũ. Nay có cơ hội gặp Ngài,
lại được Ngài mở lời mời : Hãy theo Ta. Các Chàng trai đã chấp
nhận một sự thay đổi hoàn toàn, không chỉ bỏ lưới bỏ thuyền, bỏ cha mẹ
để theo Chúa Giêsu, mà còn chấp nhận thay đổi hẳn nếp sống, không còn
lênh đênh trên biển nữa ; trái lại, các ông đã trở thành những học trò,
những mộn đệ đi theo Chúa Giêsu.
Các môn đệ đã bỏ chài lưới mà theo Người.
Bỏ mọi sự để theo Chúa Giêsu đó cũng chính là sám hối để bước vào triều
đại mới. Vì sống trong thời đại của ơn cứu độ mà Chúa Giêsu mang đến
không gì khác hơn là dám chấp nhận bỏ lại quá khứ, bỏ lại nếp sống cũ để
bước vào một nếp sống mới, là đi theo Chúa Giêsu, tuân giữ giới răn, lề
luật của Người. Vì triều đại mới của Thiên Chúa cũng đồng thời đòi phải
có những con người mới.
Thực tế, nhiều người tự cho mình không
cần phải sám hối, không cần phải thay đổi. Thiên Chúa mong đợi nơi con
người không phải là việc khóc lóc bên ngoài, mà là một thái độ khiêm
nhường nhận mình nhỏ bé trước mặt Thiên Chúa và cần đến lòng xót thương
của Thiên Chúa. Ngày xưa, khi được Chúa sai đến với dân Ninivê, ông
Giôna nghĩ rằng dân Ninivê không thể sám hối và không đáng được hưởng
lòng thương xót, nên ông đã từ chối đến với họ. Thế nhưng, khi ông mới
mất một ngày kêu gọi mọi người sám hối, thì từ vua đến dân, từ con người
đến súc vật đều sám hối. Họ từ bỏ lối sống giàu sang hưởng thụ, từ bỏ
những hào nhoáng bên ngoài để mặc áo nhặm, rắc tro trên đầu bày tỏ lòng
sám hối, từ bỏ lối sống gian ác để sống đời sống mới. Thiên Chúa đã nhìn
thấy sự sám hối chân thành của họ, Ngài đã nguôi giận và không trừng
phạt dân Ninivê nữa. Như thế, việc sám hối thành tâm có thể làm “mủi
lòng” Thiên Chúa.
Một khi tin Đức Giêsu và đón nhận Tin
Mừng của Ngài, chúng ta phải thay đổi lối sống. Thánh Phaolô trong bài
đọc hai đã chỉ cho chúng ta một cách sống thích hợp hơn. Đó là sống siêu
thoát, không để mình bị lệ thuộc vào thế gian và vật chất. Vì bộ mặt
thế gian này đang qua đi : Vì thế, những người có vợ hãy sống như
không có vợ ; ai khóc lóc hãy làm như không khóc ; ai mua sắm hãy làm
như không có gì cả ; kẻ hưởng dùng của cải đời này hãy làm như không
hưởng dùng. Dạy như thế, Thánh Phaolô cho thấy rằng dục vọng, thế
gian, vật chất và lối sống hưởng thụ có một sức hút rất mạnh như dòng
nước xoáy, nó có thể nhấn chìm tất cả những ai rơi vào vòng xoáy của nó.
Vì vậy, trong khi sống và hưởng dùng những của thế gian, cần phải biết
sống cho thanh thoát, chừng mực, không để mình bị lệ thuộc hay bị trói
buộc bởi dục vọng, của cải và thế gian.
Thưa quý OBACE, lời mời gọi sám hối,
thay đổi lối sống là lời mời gọi liên tục của Tin Mừng. Vì sám hối không
phải là việc làm một lần trong năm, mà phải là thái độ và hành động kéo
dài liên tục mỗi ngày trong suốt cuộc đời. Với mục đích của sám hối là
canh tâm đổi mới, thì việc sám hối không dừng lại ở việc tránh tội hoặc
hối hận vì tội, mà còn là lời mời gọi mỗi người phải tích cực làm mới
cuộc đời mình mỗi ngày, chấp nhận thay đổi, từ bỏ những thói quen và nếp
sống cũ để bắt đầu một nếp sống mới tốt hơn.
Hãy làm mới lại tương quan của chúng ta
với Chúa. Một khi tin Chúa, được làm con Chúa, chúng ta cần phải sống
cho trọn đạo làm con, tức là phải sống thảo hiếu với Chúa bằng việc lắng
nghe và chu toàn những gì Chúa truyền dạy. Hãy khiêm tốn nhìn nhận sự
yếu đuối, bất toàn của mình để đến xin Chúa nâng đỡ và ban ơn trợ giúp
để chúng ta sống tốt hơn mỗi ngày. Hãy đến với Bí tích giải tội để cảm
nhận được tình yêu thương tha thứ của Chúa, một Thiên Chúa là Cha và đến
với Bí Tích Thánh Thể mỗi ngày để đón nhận sự đỡ nâng và sức sống từ
Chúa thông ban cho chúng ta.
Tin vào Tin Mừng là tin vào chính Chúa
Giêsu là Thiên Chúa, là Đấng Cứu độ và là Đấng quyền năng. Tin là dám
phó thác cuộc đời, gia đình và mọi lo toan cuộc sống trong tay Chúa. Tin
Chúa Giêsu là Thiên Chúa thì không thể để mình theo lối sống của dân
ngoại, không thể thực hành lối sống mê tin mù quáng, nhưng biết tin
tưởng phó thác hoàn toàn cho Thiên Chúa dù thành công hay thất bại, dù
khi vui hay lúc buồn.
Là công dân mới của Nước Trời, của Tin
Mừng, mỗi chúng ta phải là chứng nhân cho niềm vui, niềm tin và hy vọng
trong xã hội hôm nay. Hãy canh tân đổi mới lại bầu khí của gia đình, hãy
làm cho gia đình thực sự êm ấm, vui tươi và hạnh phúc. Hãy loại bỏ
những thói quen cũ không thích hợp của gia đình để lập nên một thói qen
mới tốt hơn. Hãy tập cho mỗi thành viên có thói quen phó dâng chính mình
và công việc cho Chúa mỗi khi bắt đầu ngày mới; và khi chiều về, hãy
tập thói quen cùng nhau xum họp, dâng lời kinh tạ ơn Thiên Chúa trước
khi kết thúc mỗi ngày. Hãy loại bỏ những thói quen có hại cho gia đình
như sự lười biếng, rượu chè, cờ bạc, cãi vã khiến cho các thành viên
trong gia đình không thể gần nhau được và tập những thói quen mới như
trò chuyện, vui đùa, cùng ăn chung bữa cơm tối xum vầy.
Triều đại mà Chúa Giêsu khai mở đòi phải
có những con người mới, với nhiệt tâm mới. Các bạn trẻ hãy noi theo tấm
gương của các chàng trai trong Tin Mừng hôm nay. Hãy can đảm đáp lại
lời mời gọi của Chúa Giêsu, chấp nhận thay đổi nếp sống cũ để bắt đầu
một cuộc sống mới. Hãy mạnh dạn bỏ lại đàng sau những lôi kéo, hứa hẹn
của thế gian để dám sống theo Tin Mừng của Chúa Giêsu và bước theo Ngài.
Hãy bỏ đi những danh vọng hão huyền, nhưng miếng mồi vật chất, những
lối sống đẳng cấp mà thế gian đang bày như một tiêu chuẩn cho các bạn để
dám sống như Chúa mời gọi và sống cùng với Chúa Giêsu, đi theo Ngài,
trở nên những môn đệ tốt của Chúa.
Xin Chúa giúp mỗi chúng ta luôn biết
nhìn lại và canh tân chỉnh sửa bản thân và gia đình mỗi ngày, biết tô
điểm cho cuộc đời và gia đình bằng những nếp sống và những việc làm tốt
theo lời mời gọi của Chúa để mỗi chúng ta có thể được nếm hưởng Nước
Trời ngay hôm nay và mai sau. Amen.
Về mục lục.
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Trong một khu vườn, những cây Hướng
Dương hoa vàng rực rỡ đang vươn mình ra đón ánh nắng mặt trời, tận hưởng
niềm vui cuộc sống. Chợt, Hướng Dương nghe tiếng thút thít dưới chân.
À, hình như bạn Nha Đam đang khóc. Hướng Dương nhẹ nhàng hỏi:
– Hình như bạn có điều gì phiền muộn?
Nha Đam bối rối đáp:
– À, không có gì đâu.
– Rõ ràng, tôi nghe tiếng bạn khóc mà.
Có điều gì thế, bạn kể cho tôi nghe đi, mình là bạn bè, là hàng xóm của
nhau, có gì thì cùng nhau chia sẻ.
Nha Đam tấm tức:
– Tôi buồn lắm bạn ạ. Trời không thương
nên cho tôi sinh ra với thân hình xấu xí. Đã thấp lè tè, lá lại kỳ quặc
chẳng giống ai. Bạn thấy đấy, trong vườn này, muôn hoa đua sắc, còn tôi
có cố gắng mấy cũng không thể mọc được cái hoa nào!
Hướng Dương nhẹ nhàng bảo:
– Bạn Nha Đam à, bạn đừng buồn như thế.
Mỗi loài cây đều có sứ mệnh riêng. Tuy bạn không đẹp rạng rỡ như chúng
tôi để tô điểm hương sắc cho đời, nhưng bạn cũng rất có ích đấy.
– Có ích à? Thôi bạn đừng an ủi, tôi mà có ích gì đâu.
– Có đấy, bạn giúp được cho con người trị được rất nhiều thứ bệnh. Chẳng lẽ những điều đó không đáng để cho bạn tự hào sao?
Nha Đam nghe vậy, ngập ngừng nói:
– Nhưng tôi lại thấp bé, xấu xí, trong khu vườn này tôi đã bị chìm khuất, có ai biết đến tôi đâu.
– Không sao đâu! Tuy bạn không nổi bật
nhưng con người vẫn biết đến bạn đấy, giá trị của chúng ta không phải ở
chỗ cao – thấp, đẹp – xấu mà ở chỗ chúng ta giúp ích gì cho cuộc đời
này. Bạn hãy vui vẻ lên, sống khỏe mạnh, đừng tự ti, mặc cảm, rồi sẽ có
ngày bạn được biết đến, hãy tin tôi!
Sưu tầm
Hóa ra ở đời người ta đâu quan trọng cái
đẹp bên ngoài. Sống có ích cho đời mới là quan trọng. Sống có ích cũng
là một sứ mạng của vạn vật. Sống chu toàn sứ mạng của mình càng làm cho
giá trị của mình được tăng thêm.
Thực vậy, mỗi tạo vật đều được Chúa trao cho một sứ mạng. Từ con người cho đến vạn vật, mỗi loài đều có sứ mạng riêng.
Mặt trời có sứ mạng tỏa sáng và sưởi ấm
các sinh vật trên mặt đất. Cây lúa có sứ mạng nuôi sống con người.
Muôn loài hoa có sứ mạng tô điểm cho vạn vật, và dường như mọi loại đều
cố gắng thi hành tốt sứ mạng của mình. Ánh mặt trời luôn tỏ rạng để mang
lại sự sống cho con người. Cây lúa luôn trổ bông trĩu hạt. Muôn loài
hòa luôn xinh tươi lộng lẫy đem lại hạnh phúc cho con người.
Chúa Giêsu khi xuống thế làm người cũng
phải hoàn thành tốt sứ mạng Chúa Cha trao phó. Ngài đến trần gian vì
vâng phục Chúa Cha. Ngài thi hành sứ mạng cứu rỗi nhân gian qua cái chết
khổ hình và sống lại vinh quang. Ngài đã được rước lên trời sau khi thi
hành tốt sứ mạng rao giảng Tin Mừng và cứu độ trần gian.
Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa
Giê-su kêu gọi các tông đồ cùng chia sẻ sứ mạng với Ngài. Những tông đồ
đầu tiên là Simon, An-rê, Gia-cô-bê, Gioan đã nhanh chóng bỏ lại việc
riêng để làm việc cho Chúa. Các ngài đã bước đi theo Chúa với niềm hăng
say loan tin mừng Nước Trời đến cho anh em của mình. Các ngài vui vì
được Chúa chọn gọi. Các ngài hạnh phúc vì được cộng tác với Chúa trong
sứ mạng cứu độ trần gian. Điều đó đã giúp các ngài bỏ lại tất cả danh
lợi thú trần gian để chỉ phụng sự cho chương trình của Thiên Chúa.
Con người chúng ta sinh ra đều có một sứ
mạng. Cây cỏ còn có sứ mạng huống chi con người ? Mỗi loài đều có một
giá trị hay nói cách khác là đều có một sứ mạng của mình. Vậy sứ mạng
của tôi là gì ? Tôi phải làm gì cho bản thân, cho gia đình, cho Giáo hội
và xã hội ?
Điều mà Chúa muốn nơi những người tin
theo Chúa là hãy rao giảng Tin mừng cho anh em. Hãy làm chứng về Nước
Trời. Hãy tôn vinh Chúa và làm sáng danh Chúa trong cuộc đời của mình.
Chúa muốn chúng ta là muối men cho đời. Chúa muốn chúng ta phải ướp mặn
trần gian bằng đời sống yêu thương và phục vụ. Chúa muốn chúng ta phải
thẩm thấu vào thế gian lời Chúa để men lời Chúa canh tân bộ mặt trái
đất.
Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu mỗi người ky-tô hữu luôn là muối ướp mặn cho đời bằng hy sinh, bằng phục vụ, bằng bác ái và vị tha.
Cuộc đời sẽ đẹp biết bao nếu mỗi người
ky-tô hữu luôn là ánh sáng cho mọi người khi biết sống theo tin mừng,
biết vì Chúa mà sống tốt sứ mạng của mình là canh tân bộ mặt trái đất.
Xin Chúa cho chúng ta luôn biết chu toàn
sứ mạng của đời ky-tô hữu là giới thiệu Chúa cho tha nhân. Giới thiệu
không bằng lời nói mà bằng đời sống bác ái yêu thương và thờ phượng Chúa
trên hết mọi sự. Amen.
Về mục lục.
PM. Cao Huy Hoàng
Con người mở mắt vươn vai chào một ngày
mới, chào ánh mặt trời rực rỡ vừa lên, thoắt đã tiễn ngày đi để nhận lấy
bóng tà huy buồn bã, thoắt đã nhắm mắt lại với bóng đêm tăm tối mịt
mùng. Một ngày sống đã qua đi. Rồi từng ngày qua đi. Cuộc sống cứ như
vẫn nhịp đều theo dấu chân của mặt trời đếm bước.
Hình như ở tuổi hồn nhiên, hoặc chưa có
khái niệm về thời gian, hoặc khái niệm thời gian chưa đủ làm cho con
người bồi hồi xao xuyến. Nhưng khi hơi có tí tuổi, cùng với tình trạng
rệu rã trong thân xác, nếm đủ mùi thất bại, trải bao nỗi bi thương, thì
ai cũng có thể nhận ra bóng xế, bóng chiều của cuộc đời đang xuất hiện,
bóng đêm cuộc đời đang ập đến, và cỗ xe vĩnh cửu đang chờ ngay trước
cửa.
Lời Chúa hôm nay không có ý mời gọi
chúng ta ngộ ra quỹ thời gian của mình còn quá ít ỏi, và hãy vội vàng
nhìn lại ý nghĩa của cuộc sống chóng vánh này. Nhưng, tích cực hơn, Lời
Chúa giới thiệu cho chúng ta rằng Nước Thiên Chúa đã đến: Đức Giêsu
Kitô, Con Thiên Chúa đã đến. Ngài khai mở một ý nghĩa mới cho cuộc đời
trần gian chóng vánh này là: sống để được sống muôn đời. Muốn được như thế, Ngài kêu gọi: “Anh em hãy ăn năn sám hối và tin vào Phúc Âm”. Vì “Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến” (Mc 1,14)
“Hãy ăn năn, sám hối”,
lời mời gọi này như một điệp khúc trong đời bạn, trong đời tôi. Chúng ta
đã nghe biết bao lần, lặp đi lặp lại biết bao lần, nhưng tiếc là chúng
ta vẫn chưa ăn năn sám hối, hoặc nếu có, thì cũng chỉ là mới dừng lại ở
bước biết mình đang sống trong tình trạng xấu, mà chưa có có một quyết
tâm làm lại cuộc đời.
Đã có nhiều người có phút nhìn lại mình để tự kiểm và tiến thân nên hoàn hảo hơn, nên tốt hơn.
Nhưng cũng có những phút nhìn lại rất kỳ
quặc: đó là bước tự kiểm, tự phê của người không tin Chúa, không tin
Trời, không tin có đời sau. Tự kiểm, tự phê để đổi mới sao cho kiêu căng
hơn, gian tà hơn, ác độc hơn, phạm các tội tày trời cách tinh vi hơn
tưởng như mắt trời không nhìn thấy. Hoặc, không tin có trời thì cứ yên
tâm mà phạm tội: mắt trời đâu mà nhìn thấy. Cứ thế, người ta tiến dần
đến chỗ sống cách sống của ác quỷ.
Ai dám hy vọng là ác quỷ sẽ có lòng sám
hối. Lẽ nào chúng ta lại muốn làm ác quỷ để không biết thế nào là sám
hối, không biết thế nào là làm lại cuộc đời cho đúng với nhân vị xinh
đẹp đáng quí của mình.
Ai cũng yêu sự sống mình, nhưng đã có
thời gian chúng ta không biết thế nào là yêu cho phải, cho đúng. Và cứ
thế, chúng ta đã kéo dài những ngày đời vô nghĩa biết bao. Có người đã
yêu mình bằng cách tự làm nhục đời mình, tự thiêu hủy đời mình, tự chuốc
vào mình những liều thuốc cực độc, đó là: kiêu căng, ích kỷ, gian tà,
dâm ô, tham lam, thù hận… Trong số đó, liều thuốc kiêu căng vẫn luôn là
độc dược số một. Kiêu căng là phủ nhận sự hiện hữu của Thiên Chúa trong
cuộc đời mình, hoặc vẫn tin có Thiên Chúa, nhưng yêu cầu Thiên Chúa phải
thực hiện theo ý mình vì mình là ông kia bà nọ, vì mình có trí khôn, có
học vị, có danh giá, có tiền bạc, có quyền thế…
Lời Chúa hôm nay nói rằng: “Thời giờ đã mãn”
nghĩa là đã đến lúc không chỉ nhận ra mình đang dùng những liều thuốc
cực độc, mà còn phải khẩn cấp tránh cho xa, phải khẩn cấp từ bỏ cho
tuyệt gốc, và nhất là cần phải sử dụng loại thuốc mới bổ dưỡng cho tâm
linh, bảo đảm cho thân xác một cuộc sống và sống lại, sống muôn đời: đó chính là “Tin vào Lời Chúa”, “Tin vào Đức Giêsu Kitô”.
Thời gian chóng vánh, ít ỏi, sẽ không
còn là một nỗi ám ảnh kinh hoàng cho những ai đã có lòng “sám hối và Tin
vào Chúa Giêsu”. Hai việc “sám hối và tin vào Chúa Giêsu” luôn đi đôi
với nhau, không thể thiếu một trong hai. Vì nếu sám hối mà không tin vào
Chúa Giêsu, thì hãy coi chừng đó là cách sám hối của ma quỷ. Nếu tin
vào Chúa Giêsu mà không sám hối thì lòng tin ấy gian trá điêu ngoa, trá
hình, lừa bịp Thiên Chúa.
Câu chuyện Cựu Ước mà sách Giona kể về
dân thành Ninivê hôm nay, gợi cho chúng ta một ý nghĩa tích cực về lòng
sám hối và tin tưởng. Được thông báo: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ninivê sẽ bị phá huỷ”, dân thành Ninivê tin tưởng nơi Chúa, họ công bố việc ăn chay và mặc áo nhặm, từ người lớn đến trẻ nhỏ.. Họ không chỉ “ăn chay và mặc áo nhặm”, nhưng họ đã thực hiện điều cốt lõi của việc ăn năn sám hối là “bỏ đời sống xấu xa”. Vì thế, sự sám hối toàn bích của họ đã làm thay đổi ý định của Thiên Chúa: “Chúa thấy việc họ làm, vì họ bỏ đời sống xấu xa, Chúa bỏ ý định phạt họ, và Người không thực hiện điều đó”.(x Gn 3, 1-5. 10)
“Sám hối và tin vào Chúa Giêsu” còn
là điều kiện tiên quyết và ắt có để được Chúa Giêsu biến đổi nên người
có ích cho công cuộc cứu rỗi của Thiên Chúa. Quả thực, Chúa không nói
với Simon và Anrê rằng “các ngươi là những kẻ chài lưới người” nhưng Ngài nói “Ta sẽ làm cho các ngươi trở thành những kẻ chài lưới người”. Trong quá trình “làm cho trở thành”, hẳn nhiên người môn đệ Chúa hẳn phải là những người trước tiên “sám hối và tin vào Chúa Giêsu”.
Không thể có một người tự xưng là môn đệ
Chúa, là tông đồ cho Chúa, nếu người ấy không tuyên bố sám hối: “từ bỏ
ma quỷ và các việc của ma quỷ”, tuyên tín vào “Chúa Giêsu Kitô” và tháp
nhập vào Chúa Kitô qua bí tích rửa tội. Thế thì, mỗi tín hữu chúng ta đã
và đang được Chúa Giêsu “làm cho trở thành những kẻ chài lưới người”.
Đó một hồng ân cao quí dành cho tất cả những ai sống với sứ mạng Kitô
hữu tông đồ: sống trước cuộc sống của Nước Thiên Chúa ngay khi còn ở
trần gian, như Thánh Phaolô đã mô tả: “Anh em thân mến, tôi nói
cùng anh em điều này là: Thời giờ vắn vỏi; còn có cách là những ai có
vợ, hãy ở như không có; những ai than khóc, hãy ăn ở như không than
khóc; những kẻ hân hoan, hãy ăn ở như không hân hoan; những người mua
sắm, hãy ăn ở như không có gì; những ai dùng sự đời này, hãy ăn ở như
không tận hưởng, vì chưng bộ mặt thế gian này đang qua đi” (1 Cr 7,
29-31)
Nguyện xin Lời Chúa giúp chúng con liên
lỉ “ăn năn sám hối và tin vào Chúa Giêsu”, quyết tâm từ bỏ ma quỷ và các
việc gian tà của chúng, để chúng con được Chúa “làm cho trở thành”
những nhân chứng sống động cho Tin Mừng, cho Tình Yêu Chúa giữa dòng
đời. Amen.
Về mục lục.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Có một thầy ẩn tu tên là
Xê-bat-chiêng thường đến cầu nguyện tại một nhà nguyện vắng vẻ trên núi.
Trong nhà nguyện này dân chúng tôn kính một tượng Thánh Giá với tước
hiệu là “Tượng Chúa ban ơn”
Thấy dân chúng có lòng tin thường đến cầu xin ơn lành, thầy Xê-bat-chiêng cũng thêm lòng tin cậy.
Một hôm vắng người, thầy quỳ gối
trước Thánh Giá và chân thành khấn nguyện: “Lạy Chúa, con ước ao được
chia sẻ đau khổ với Chúa, xin cho con được thế chỗ Chúa trên thánh giá”.
Thầy quỳ yên lặng, mắt đăm đăm nhìn
lên Thánh Giá mong đáp lời. Một lúc sau, từ Thánh Giá có tiếng phán bảo:
“Được, Ta bằng lòng để con thế chỗ Ta trên Thánh Giá nhưng với một điều
kiện duy nhất là bất cứ điều gì xảy ra, tai con nghe gì, mắt con thấy
gì, con đều phải giữ im lặng không được nói năng gì hết”. Xê-bat-chiêng
hứa và được Chúa Giêsu cho lên thế chỗ Ngài trên Thánh Giá.
Ngày qua ngày, dân chúng vẫn đến trước tượng Thánh Giá để cầu nguyện. Không ai hay biết về việc đổi chỗ này.
Một hôm, có người xứ nọ đến cầu
nguyện. Khi ra về, ông để quên dưới ghế quỳ cái túi đầy những đồng tiền
vàng. Thấy vậy thầy vẫn yên lặng.
Lúc sau, có một người nghèo khổ vào
nhà nguyện, ông ta sung sướng nhìn túi tiền vàng, tưởng là Chúa ban cho
liền xách túi, tạ ơn và đi ra.
Rồi có một chàng thanh niên vào quỳ
gối khẩn nguyện xin ơn che chở vì sắp đi xa. Vừa ra khỏi nhà nguyện thì
gặp người phú hộ trở lại tìm túi tiền. Không thấy đâu, ông nghi chàng
thanh niên đã lấy đi, tranh cãi và cả hai mời cảnh sát phân xử.
Không cầm lòng được nữa, từ trên
Thánh Giá, thầy Xê-bat-chiêng hét lên: Đứng lại. Mọi người ngạc nhiên.
Thầy phân trần sự việc. Người phú hộ tìm người nghèo xin lại túi tiền.
Chàng thanh niên cũng vội vã đi cho kịp chuyến tàu.
Khi không còn ai trong nhà nguyện,
Chúa Giêsu lên tiếng bảo Xê-bat-chiêng: “Con hãy xuống ngay khỏi Thánh
Giá, con không xứng đáng thế chỗ cho Ta, vì con đã không biết giữ yên
lặng như lời con đã hứa.”
Thầy vội vã phân trần: Nhưng lạy Chúa, làm sao con có thể chịu đựng được cảnh bất công đó?
Chúa Giêsu đáp: Thật con không hiểu
gì hết! Tiền của người phú hộ là tiền bất lương, trong khi người nghèo
đói kia vất vả mà không kiếm đủ miếng cơm manh áo cho đàn con nhỏ. Và
nếu chàng thanh niên kia có bị cảnh sát giữ lại, anh ta lỡ chuyến tàu,
như thế đã cứu được mạng sống mình. Kìa, tàu của anh ta đang lao đao
giữa biển cả sắp chìm vì sóng to gió lớn. (Trích tuyển tập truyện hay,
Giấc Mộng Vàng, trang 27).
Câu chuyện gợi nhớ Lời Chúa trong sách Isaia: Tư
tưởng của Ta không phải là tư tưởng của các ngươi, đường lối của Ta
không phải là đường lối của các ngươi. Như trời cao hơn đất bao nhiêu
thì tư tưởng của Ta cũng cao hơn tư tưởng của các ngươi bấy nhiêu.
Trong suy nghĩ của con người,chúng ta
không thể hiểu được tại sao Chúa Giêsu lại gọi bốn môn đệ đầu tiên để
đặt nền tảng xây dựng Giáo hội như bài phúc âm hôm nay vừa kể.
Đó là những người chài lưới “ăn với sóng, nói với gió“,
ít học, quê mùa. Chúa Giêsu lại chọn họ làm môn đệ. Tại sao Chúa Giêsu
không chọn những Luật sĩ, những Pharisiêu, những Ký lục thông thái?
Cũng như chúng ta cũng hỏi, tại sao Chúa
Giêsu không sinh ra nơi cung điện nguy nga lộng lẫy mà lại chọn hang đá
Bêlem hôi hám lạnh lẽo để giáng sinh? Tại sao Chúa Giêsu lại chọn cái
chết Thập giá đau đớn tủi nhục để làm phương thế cứu độ? Ngắm nhìn Hài
Nhi trong máng cỏ cũng như nhìn lên tử tội Giêsu trên thập giá, chúng ta
thường tự hỏi tại sao Chúa lại thích những điều nghịch lý? Làm sao
người ta có thể tuyên xưng Người là Đấng Giải Thoát khi Người đến trong
dáng vẻ yếu đuối bé bỏng?
Thánh Phaolô đã từng thốt lên: Trong
khi người Hy lạp tìm kiếm sự khôn ngoan, trong khi người Do thái tìm
các dấu lạ, thì chúng tôi lại rao giảng Đức Kitô chịu đóng đinh. Một sự điên rồ đối với lý trí nhân loại.
Bởi đó, đường lối của Thiên Chúa không phải là đường lối của con người. Thiên Chúa là Thiên Chúa. Con người là thụ tạo.
Chúa Giêsu thường chọn những cái nghịch
lý để làm những điều vĩ đại. Tám mối phúc thật là nghịch lý đối với
người đời nhưng lại là Hiến Chương Nước Trời. Chúa Giêsu không đến với
sức mạnh bạo lực nhưng với những gì yếu ớt mỏng manh kết tụ nơi Hài Nhi
bé nhỏ. Chúa Giêsu cũng kêu gọi những người tầm thường, những người
khiêm nhường bé nhỏ. Chính bằng cái mỏng manh bé nhỏ ấy mà Người khơi
dậy nơi con người cái chân tâm để rồi tình yêu của Người giúp họ biến
đổi để trở nên những rường cột của Giáo hội.
Như thế Chúa nhìn con người với cái nhìn
yêu thương, tôn trọng, luôn thấy cái tốt, cái đáng yêu nơi mỗi người
cho dù họ nhỏ bé, họ tầm thường. Chính sự bé nhỏ đó mà Chúa biến đổi để
nên lớn lao.
Mỗi người chúng ta trong cách nhìn về
tha nhân cũng cần học theo gương của Chúa. Đó là cái nhìn về phía đàng
trước, về phía tương lai.
Nhiều lần ta khóa chặt anh chị em mình
trong quá khứ lỗi lầm. Nhiều khi chỉ vì vài xích mích, vài lỗi lầm trong
cuộc sống, nhưng ta lại vịn vào đó mà phủ nhận, mà phán đoán và đánh
giá chính họ theo thành kiến của mình. Có người giận Cha xứ mà bỏ Nhà
thờ không đi lễ, không xưng tội rước lễ. Có người tâm sự: mọi người coi
tôi như một người xấu xa, ai cũng lên án, ai cũng xa lánh, cùng lắm chỉ
thương hại, không còn cánh cửa mở ra phía trước cho tôi.
Về mặt xã hội, mấy mươi năm qua cũng có
thái độ xét đoán con người như thế. “Chủ nghĩa lý lịch” tạo nên sự kỳ
thị khủng khiếp. Biết bao nhân tài bị mai một, không phát huy được tài
năng chỉ vì lý lịch. Biết bao kẻ bất tài nhờ lý lịch được thăng quan
tiến chức. Khóa chặt con người trong quá khứ, một quá khứ do cha mẹ, do
hoàn cảnh xã hội tạo nên. Vì quá khứ ấy mà mà mọi cánh cửa mở ra cho
tương lai của xã hội đất nước cũng bị thiệt thòi.
Cho nên xem ra con người ta vẫn hay nhìn
lại phía đàng sau hơn là nhìn về phía đàng trước. Trong khi đó, niềm
tin vào Thiên Chúa, Đấng mở ngỏ cho tương lai lại thúc bách ta nhìn về
phía tương lai.
Nhìn về phía tương lai là không chấp
nhận thái độ thất vọng: thất vọng về chính mình, về anh em, về cuộc đời.
Nhìn về phía tương lai là thay thế thất vọng bằng niềm tin: tin vào
chính mình, tin vào con người, tin vào cuộc đời… Niềm tin gắn liền với
hy vọng. Thất vọng như Giuđa nên đã thắt cổ tự vẫn. Hy vọng như Phêrô,
đã từng sa ngã và tin vào ơn thứ tha nên tìm lại mùa xuân tâm hồn. Vào
một buổi sáng mùa xuân, có hai người mất hy vọng đang đi với nhau, buồn
phiền sầu não chán chường mệt mỏi. Nhưng Đấng Hy Vọng đã tới với họ.
Người chuyện trò với họ. Hai môn đệ trên đường Emmau quyết định quay về
Giêrusalem. Niềm hy vọng làm bừng dậy sức sống mới. Từ đó Đấng Hy Vọng
là niềm hạnh phúc cho nhân loại.
Nhìn về phía tương lai là tin vào Thiên
Chúa, Đấng mở ngỏ và dẫn đưa chúng ta đi về quê trời dấu yêu, niềm hy
vọng tuyệt vời trên hành trình đức tin.
Lạy Chúa, xin ban cho chúng con sự nhẫn nại,để chúng con có thể chờ đợi những điều sẽ xảy đến trong tương lai,
để có thể thay đổi con người chúng con sao cho phù hợp với những điều mà chúng con không mong ước,
để chúng con có thể chấp nhận những người gây khó chịu cho chúng con,
để chúng con có thể sống giữa những giới hạn của cuộc đời này.
Xin ban cho chúng con sự can đảm cần thiết,
để chúng con trở nên bạn thân của những kẻ thù,
để chúng con có thể chấp nhận và hy vọng vào những điều hầu như đã hết hy vọng,
để chúng con có thể đối mặt với những chỉ trích,
để chúng con có thể tin vào những gì có thể và những gì không thể.
Xin ban cho chúng con ơn khôn ngoan là ơn mà không thể thiếu được trong cuộc sống này,
để chúng con thấy được giá trị ở những điều mà mọi người coi thường nó,
để chúng con có thể chấp nhận những điều không thể giải thích được trong cuộc sống hằng ngày,
để chúng con có được một tinh thần học hỏi và sẵn sàng phó thác vào ân ban của Chúa. Amen. (Lời kinh Hy vọng, trích từ tập kinh “Lời kinh dâng Chúa”)
Về mục lục
.
Trầm Thiên Thu
Bướng bỉnh và ngoan ngoãn (*) là hai
động thái trái ngược nhau, nhưng lại có thể “liên quan” lẫn nhau – từ
bướng bỉnh trở thành ngoan ngoãn hoặc ngược lại. Từ “ngưỡng” này qua
“ngưỡng” khác phải có sự dứt khoát, phải mạnh mẽ để khả dĩ vượt qua
chính mình. Cả người bướng và người ngoan đều cần động thái dứt khoát.
Dứt khoát là không còn đắn đo, cân nhắc
hoặc lưỡng lự. Động thái này không dễ thể hiện, vì phải mau chóng phân
biệt phải trái và quyết định ngay. Rất khó! Người làm được như vậy là
người có tâm lý mạnh và thể hiện tính cương trực. Nói một là một, nói
hai là hai: “Điều gì đã quyết là đã quyết” (nói theo kiểu Philatô).
Trong sự dứt khoát có thể có chút gì đó
bị người ta cho là tính bướng bỉnh, ngang tàng hoặc “gàn bát sách”,
nhưng đó là sự bướng bỉnh cần thiết. Con ngựa chứng là con ngựa giỏi, vì
không điều khiển được nó nên người ta cho nó là “chứng” và ghét nó. Với
con người cũng vậy!
Thời Cựu Ước, Thiên Chúa đã đích thân sai ông Giôna đi lần thứ nhất: “Hãy đứng dậy, đi đến Ni-ni-vê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết rằng sự gian ác của chúng đã lên thấu tới Ta” (Gn 1:1).
Ông vội đứng dậy nhưng không đi theo lệnh mà lại trốn đi Tác-sít, tránh
mặt Chúa. Ngang bướng thật đấy! Nhưng kể ra cũng “can đảm” vì dám cãi
Thiên Lệnh. Khi đó, ông đã thể hiện tính dứt khoát. Tàu chạy, bỗng dưng
sóng gió ầm ầm, người ta gieo quẻ xem rơi trúng ai thì đó là kẻ gây tai
họa. Quẻ rơi trúng ông Giôna. Ông tá hỏa tam tinh, cảm thấy mình sai nên
hối hận và bảo người ta ném ông xuống biển. Con cá lớn nuốt ông trong
bụng ba ngày rồi nhả ông lên bờ.
Sau đó, Chúa lại sai ông Giôna đi lần thứ hai: “Hãy đứng dậy, đi đến Ni-ni-vê, thành phố lớn, và hô cho dân thành biết lời tuyên cáo Ta sẽ truyền cho ngươi” (Gn 3:2).
Lần này ông không dám bất tuân nên đứng dậy và đi Ni-ni-vê theo lệnh
Đức Chúa. Kinh Thánh cho biết rằng Ni-ni-vê là một thành phố cực kỳ rộng
lớn, đi ngang qua phải mất ba ngày đường. Ông Giôna bắt đầu vào thành,
đi một ngày đường và công bố: “Còn bốn mươi ngày nữa, Ni-ni-vê sẽ bị phá đổ” (Gn 3:4).
Dân Ni-ni-vê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải
thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ. Dân Ni-ni-vê thật là ngoan ngoãn, vừa
biết bảo nhau vừa biết phục thiện, vậy là diễm phúc lắm!
Thật vậy, Thiên Chúa luôn giàu lòng
thương xót, không muốn ai phải hư mất, luôn kiên nhẫn chờ đợi các tội
nhân hoán cải, nên khi Ngài “thấy việc họ làm, thấy họ bỏ đường gian ác
mà trở lại, Ngài hối tiếc về tai họa Ngài đã tuyên bố sẽ giáng trên họ,
Ngài đã không giáng xuống nữa” (Gn 3:10). Đây là niềm hy vọng cho mỗi
chúng ta, dẫu có tội lỗi tới mức nào thì cũng hãy cứ tin tưởng, đừng
tuyệt vọng! Thiên Chúa chỉ cần chúng ta chân thành sám hối, rồi mọi thứ
cũng chỉ là “chuyện nhỏ”, Ngài sẽ thứ tha hết. Thật vậy ư? Thật vậy,
chắc chắn như thế, vì chính Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh nữ
Faustina:“Lòng Thương Xót của Ta lớn hơn cả tội lỗi của con và cả nhân loại” (Nhật Ký, số 1485). Biết như vậy không phải để ỷ lại, mà để cố gắng củng cố đức tin yếu mềm của chúng ta.
Nói tin thì dễ, nhưng rất khó để thể
hiện và sống đức tin. Là phàm nhân thì ai cũng thế thôi, chẳng nói hay
được. Tác giả Thánh Vịnh đã luôn phải cầu xin: “Lạy Chúa, đường nẻo
Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn
con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là
Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài
nhân ái” (Tv 25:4-5).
Thật vậy, khi còn trẻ, mấy ai không đã
từng sa ngã, mấy ai không phải khốn đốn đôi lần, chính nhờ kinh nghiệm
“xương máu” đó mà người ta mới nên khôn: “Lạy Chúa, xin nhớ lại
nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời. Tuổi
xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến, nhưng xin lấy tình
thương mà nhớ đến con cùng” (Tv 25:6-7). Ngựa non háu đá, người trẻ
háo thắng, đó là chuyện thường tình. Thiên Chúa không chấp chúng ta,
nếu Ngài chấp tội thì chẳng ai được cứu rỗi (Tv 130:3), nhưng Ngài muốn
chúng ta ăn năn thật lòng, vì Ngài là Thiên Chúa của tình yêu, Thiên
Chúa của lòng thương xót: “Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối
cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết
đường lối của Người” (Tv 25:8-9).
Ăn năn sám hối luôn là việc cấp bách,
hành động cần thiết hàng ngày, không chỉ cần thiết trong Mùa Vọng, Mùa
Chay, dịp tĩnh tâm,… Thánh Phaolô nói: “Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này:thời gian chẳng còn bao lâu.
Vậy từ nay những người có vợ hãy sống như không có; ai khóc lóc, hãy
làm như không khóc; ai vui mừng, như chẳng mừng vui; ai mua sắm, hãy làm
như không có gì cả; kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng
hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi” (1 Cr 7:29-31). Thời
gian là của Chúa, dù trẻ hay già thì cũng chẳng ai biết cuộc đời mình
còn bao lâu. Có người còn trẻ và đang khỏe mạnh bình thường, thế mà bất
ngờ nghe tin người đó từ trần. Vui mà buồn, buồn mà vui. Làn ranh rất
mong manh, khó phân định rạch ròi.
Thánh Phaolô khuyên chúng ta sống mà
đừng “chia trí” hoặc “nặng lòng” với những gì ở thế gian này. Sống như
vậy không có nghĩa là hờ hững, vô tâm, vô cảm, bất cần đời hoặc “dở
hơi”, mà là ngoan ngoãn vâng phục Thánh Ý Chúa. Đó là cách sống của
người khôn ngoan: Khôn ngoan để không còn bướng bỉnh, khôn ngoan để tỉnh
thức, tỉnh thức mà chờ đợi Chúa đến – chính xác nhất là lúc Ngài đến
với cuộc đời riêng mình, lúc “tận thế” của cuộc đời mình, tức là lúc
mình chết.
Trình thuật Mc 1:14-20 đề cập “ngày tận
thế”, điều đó nhắc nhở mỗi chúng ta ĐỪNG BƯỚNG BỈNH, mà HÃY NGOAN NGOÃN.
Trình thuật này cũng cho thấy sự ngoan ngoãn của hai cặp môn đệ đầu
tiên được Chúa Giêsu mời gọi đi theo Ngài.
Sau khi ông Gioan bị nộp, Đức Giêsu đến miền Galilê rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa, Ngài đã xác định: “Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1:15).
Chắc chắn thời đại chúng ta đang sống là “thời kỳ cuối cùng”, chẳng bao
giờ có chuyện “đầu thai” kiếp khác. Chỉ có hai kiếp: Kiếp này và kiếp
sau. Kiếp sau là vĩnh hằng, nhưng có hai dạng: Hạnh phúc đời đời hoặc
khốn nạn đời đời. Tuyệt đối không có dạng “lửng lơ con cá vàng” đâu!
Khi Chúa Giêsu đang đi dọc theo biển hồ
Galilê, Ngài thấy ông Simôn với người anh là ông Anrê đang quăng lưới
xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá. Ngài bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Thánh sử Mát-thêu nói rõ: “Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người”.
Hai anh em ngư dân này không hề lưỡng lự, không tính toán chi. Đi là đi
ngay, dù đang phải lo kế sinh nhai. Động thái đó chứng tỏ họ ngoan
ngoãn chứ không bướng bỉnh như ông Giôna xưa.
Một lúc sau, khi đi xa hơn một chút,
Ngài thấy hai anh em khác: Giacôbê và Gioan, cả hai là con ông Dêbêđê.
Hai anh em này cũng là dân chài lưới, lúc đó Chúa Giêsu thấy họ đang vá
lưới ở trong thuyền. Ngài liền gọi họ. Và dù đang bận việc, họ bỏ cha
mình ở lại trên thuyền với những người làm công, rồi đi theo Ngài. Hai
anh em này cũng rất dứt khoát, sẵn sàng đi ngay.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng
con biết dứt khoát với mọi thứ, nhất là đối với tội lỗi, không nặng lòng
với bất cứ thứ gì, nhờ đó mà chúng con mới khả dĩ ngoan ngoãn sống đúng
theo Thánh Ý Ngài mọi nơi, mọi lúc. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh
Tử Giêsu, Đấng cứu độ chúng con. Amen.
—————
(*) Theo Đại Nam Quốc Âm Tự Vị của
Huỳnh Tịnh Paulus Của (xuất bản tại Saigon, 1895-1896) chữ “ngoan” được
sắp vào loại chữ Nho (để phân biệt với những từ thuộc loại chữ Nôm) và
giải nghĩa là “cứng cỏi, ngu si, khôn khéo”. Chữ “ngoan” có nhiều nghĩa: Ngoan ma là chai sần (nói về da thịt);ngoan ngạnh là cứng cỏi, chống báng; ngoan dân là dân khó trị; ngoan nhiên là tự nhiên như một cái cây, một cục đá, không trau dồi; ngoan ngùy là khôn ngoan, nhơn lành; ngoan đạo là giữ đạo tốt, đạo đức.
Trong sách Giúp Đọc Nôm và Hán-Việt
(NXB Đà Nẵng và Hội Bảo tồn Di sản chữ Nôm, 2004), Lm Antôn Trần Văn
Kiệm phân biệt hai hình thức và ý nghĩa của chữ “ngoan”, ghép thành bởi
chữ “nguyên” (đầu tiên, ban đầu, nguồn gốc) và bộ “kiến” (thấy, cái
nhìn, quan điểm, bản sắc). Trong chữ Nho, ngoan là ngu: Ngoan độn là không biết gì; ngoan thạnh là vô tri, vô giác; ngoan cố là khó bảo, cố giữ lập trường của mình dù biết là sai; ngoan địch là kẻ địch khó trị; ngoan bì hoặc ngoan đồng là hay phá nghịch. Trong chữ Nôm, ngoan chỉ có nghĩa là dễ bảo (ngoan đạo, ngoan ngoãn).
Trường hợp chữ ngoan trong hai nghĩa
mâu thuẫn nhau: [1] Ngoan trong chữ Nho là bướng bỉnh, khó bảo, cứng
đầu, ngu ngốc, tinh quái; [2] Ngoan trong chữ Nôm là thông minh, khôn
ngoan, dễ dạy. Những từ ngữ kiêm dụng được cả hai nghĩa này là ngoan cố (khó bảo, cố chấp) và ngoan cường(mạnh
mẽ tự vệ, đề kháng mọi sự chi phối, đàn áp). Trong cách nhìn của kẻ
chinh phục, kẻ ngoan cố giữ bản tính, bản chất, bản sắc của mình là ngu
ngốc, khó bảo, không vâng lời. Trong cái nhìn của kẻ tự vệ, không muốn
bị đồng hoá, ngoan cường mới là khôn ngoan, có giá trị, phải phát huy để
sống còn mà không bị tha hoá, biến chất.
Về mục lục
Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty, SDB
Tác giả Mác-cô tóm kết toàn bộ sứ điệp
của Đức Giê-su vào một câu tuyên bố long trọng: “Thời kỳ đã mãn và Triều
Đại Thiên Chúa đã đến gần!” Chắc chắn lời công bố này có một nội dung
mạnh mẽ lắm đối với các thính giả thời đó, cách riêng đối với các môn đệ
tin theo Ngài, và cả đối với các tín hữu thời Hội Thánh sơ khai. Ngày
nay, ngoài một số nhà thần học và Thánh Kinh đào sâu vào từ vựng Hy Lạp
‘Kairos’ tôi thiết nghĩ rất ít Ki-tô hữu, thậm chí cả linh mục tu sĩ,
thật sự nhận ra được tầm quan trọng và sâu sắc của sứ điệp nòng cốt này
của Đức Ki-tô.
Đức Giê-su công bố: “Thời kỳ đã mãn và
Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần!”, tức là thời kỳ chin mùi trong kế
hoạch của Thiên Chúa đã điểm; đã đến thời Thiên Chúa ra tay hành động.
Người gọi đó là ‘Kairos’, là cao điểm, là lúc quyết định của toàn bộ
lịch sử, lịch sử nhân loại nói chung cũng như lịch sử của từng cá nhân
con người nói riêng. Lịch sử cũ đã hoàn toàn chấm dứt, và một kỷ nguyên
mới đã thực sự mở màn, kỷ nguyên không do con người mà là do chính Thiên
Chúa chủ động. Theo Catholic Dictionary thì trong Tân Ước, từ vựng
‘Kairos’ gắn với hành động mang tính quyết liệt. ‘Kairos được coi là
‘Krisis’ trong nội dung từ vựng Hy Lạp, nghĩa là một bước ngoặt, một đổi
đời, giây phút mà một người hoàn toàn thoát khỏi cái cũ để tiếp nhận
cái mới. Đức Giê-su thậm chí khảng định đó là một cuộc sinh lại (không
phải chỉ là tái sinh theo nghĩa phổ thông) (x. Ga 3:3-6). Điều này được
Phao-lô gọi là cuộc tạo dựng mới, trời mới đất mới, tạo vật mới, A-đam
mới… Phao-lô đã không ngần ngại gọi các tín hữu Cô-rin-tô mới được rửa
tội là ‘các người đã được hiến thánh trong đức Ki-tô Giê-su, được kêu
gọi làm dân thánh, cùng với tất cả những ai ở bất cứ nơi nào kêu cầu
danh Chúa của chúng ta.’ (1Cr 1:2), cho dầu sau đó gần như trong suốt lá
thư thứ nhất gửi cho họ, ông không ngừng nêu lên những tội lỗi tầy trời
họ phạm. Chắc hẳn ông đang nhấn mạnh trên con người mới thánh thiện của
họ, trước cả khi kêu gọi họ sửa đổi con người cũ tội lỗi.
Lối nhìn này không thể bị cho là suy tư
thần học viển vông mà chính là một nhãn quan rất triệt để và căn bản về
ơn gọi Ki-tô hữu và sứ điệp Tin Mừng. Thời đầu các Ki-tô hữu đã từng coi
“hãy sám hối và tin vào Tin Mừng’ không như một tiến trình lâu dài tiệm
tiến, ngược lại như một điều đang xảy ra tức thời, và hơn nữa đã được
thành sự rồi. Ơn cứu độ không như một chỉnh sửa luân lý tiệm tiến, mà
như một cuộc cách mạng toàn diện, đảo lộn tới tận gốc rễ. Nếu có lời kêu
gọi sửa đổi thì cũng luôn mang tính cấp bách phải làm ngay, vì đã tới
‘Kairos’, ‘thời kỳ đã mãn’. Tư tưởng này mạnh tới nỗi ngày nay nhiều
người có ấn tượng các tín hữu thời đó đã mắc phải sai lầm khi nghĩ rằng:
giờ cánh chung, ngày quang lâm đã điểm tức thời, ngay trong thế hệ của
họ.
Nguyên nhân của hai nhãn quan đối kháng
nhau này phải chăng đơn giản vì hai khuynh hướng trái nghịch: gom lại
hoặc tách rời hai vế ‘hãy sám hối’ và ‘tin vào Tin Mừng’? Ngày nay có
nhiều người bó gọn Tin Mừng vào việc ‘hãy sám hội’, thậm chí có người
còn coi ‘tin vào Tin Mừng’ chỉ là một khởi sự, thậm chí một phương tiện
của việc tu thân tích đức. Người ta đã quên mất ‘thời kỳ đã mãn và Triều
Đại Thiên Chúa đã đến gần’, rằng với sự xuất hiện của Đức Giê-su Ki-tô,
nhất là với sự chết và phục sinh của Người, ‘Kairos’ đã điểm. Không may
suy nghĩ phổ thông của nhiều tín hữu vẫn là: một người được cứu độ chủ
yếu là do đã sửa lỗi, đã ăn năn hoán cải và trở nên tốt lành, với sự hỗ
trợ của các bí tich ban ơn sủng…, hơn là do chính ơn cứu chuộc Đức Ki-tô
đã thực hiện qua Nhập Thể và Thập Giá. Nói nôm na bình dân, người ta
nghĩ: được lên thiêng đàng là do công nghiệp mình đã thu tích, hơn là do
lòng nhân hậu xót thương vô biên của Thiên Chúa. Ôi, cùng là Ki-tô hữu
mà sao hai thế hệ lại có thể hiểu nghịch nhau đến như thế về nội dụng
rất nền tảng của Tin Mừng?
Là linh mục, tôi làm tốt trong vai trò
lãnh đạo khi giúp các tín hữu ăn năn sám hối để sửa chữa lỗi lầm đã
phạm, nhưng tôi phải làm gì trong tư cách mục tử của Đức Ki-tô? Chính
bản thân mình, tôi vẫn thường tự hào chau chuốt về trình độ tốt lành đạo
đức mình đạt được (qua thời gian dài được đào tạo trong chủng viện?),
hay vui mừng trông cậy vào ơn cứu độ Chúa đổ xuống tràn lan trên tôi? Và
như Phao-lô, tôi có thật sự tôn trọng sự thánh hiến mà các tín-hữu đã
lãnh hội từ ngày họ lãnh bí tích Rửa Tội, trong khi vẫn nỗ lực nhắc nhở
họ vươn lên từ những khuyết điểm của đời sống thường ngày? Tôi có thật
sự xác tín “Thời kỳ đã mãn và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần” phải được
áp dụng cho chính tôi trước hết hay không?
Lạy Thiên Chúa từ nhân cứu độ, Chúa
đến trần gian để chỉ lối và dẫn dắt các chiên đi vào con đường thẳng tắp
của ơn cứu độ dẫn tới Chúa Cha, nhưng con, mục tử của Chúa, lại đưa
chúng đi trên con đường vòng vo lê thê của luân lý và đạo hạnh; lý do là
vì chính con chưa dám tin vào lối tắt đó. Xin dạy con biết xác tín
rằng, hoàn toàn do lòng từ nhân, Chúa đã thánh hiến con trước cả khi con
nên hoàn thiện. Xin cho con hiểu ‘thời kỳ đã mãn’ cho chính con, và cho
hết thảy mọi người. A-men.
Về mục lục
Lm. Jos. DĐH
Ở đâu được no cơm ấm áo, đó là tổ quốc
của tôi. Ở đâu mà mọi người có thể sống vui vẻ, hòa thuận với nhau ?
nhiều người sẽ nghĩ nơi đó phải là nơi không có tranh chấp hận thù, ai
ai cũng có sự bình đẳng, tự do. Có thể còn nhiều lý tưởng về công danh
sự nghiệp khác nữa, nhưng thời đại, hoàn cảnh nào, người ta cũng hướng
tới đích điểm hạnh phúc, tuy không rõ, hoặc có khác nhau về khái niệm
hạnh phúc.
Lý tưởng nơi các môn đệ theo Đức Giêsu,
nơi người Kitô hữu chúng ta hôm nay, hẳn không phải là hướng tới đau khổ
tinh thần thể xác, hay chú trọng vào Đức Giêsu hùng biện, một Đức Giêsu
ở Nagiarét tài giỏi, khó hiểu ! Lý tưởng của Thầy Giêsu đến trần gian
không nhằm qui tụ một số người tài giỏi, Đức Giêsu không “cá tính” tới
độ chỉ gọi một số người chài lưới làm đệ tử.
Nếu đọc Kinh Thánh, suy tư một chút, ta
sẽ thấy Đức Giêsu không từ chối bất cứ ai, dù giầu nghèo, tội lỗi hay
công chính, Ngài đều tìm gặp, kêu gọi…. Bằng tình yêu thương, tận tình
tận tâm, chịu chết và sống lại, Đức Giêsu muốn gọi tất cả mọi người, mọi
thời, không phân biệt, đến với Ngài tận hưởng niềm vui ơn cứu độ; nghĩa
là biết đến lý tưởng hạnh phúc cuộc đời mình trong tình yêu Đức Kitô.
Thông thường để nghe được âm thanh, chỉ
cần người ta không điếc tai; để hiểu và phân biệt tín hiệu buồn vui,
thật giả, người ta phải có tư duy hợp lý. Muốn thông truyền một kiến
thức xã hội, người ta cần có sư phạm, kinh nghiệm của bản thân, mới giúp
người khác dễ hiểu và đạt được kết quả…. Cuộc sống thường ngày người ta
vẫn gọi nhau đi làm, hay cùng bạn bè “trút bầu tâm sự”. Nhưng đâu thấy
tình thầy trò, chiêu sinh theo kiểu mơ hồ…. : không chú ý tới trình độ,
chẳng cần dò xét lý lịch…., như “Thầy Trò” Giêsu xưa kia ?
Nếu trở nên nổi tiếng vì chữa được các
bệnh tật thể xác thì Đức Giêsu không ham hố, bởi Ngài không lấy “thù
lao”, cũng chẳng vô công dồi nghề như thế ! Thật ra bằng những lời giáo
huấn áp đặt, Đức Giêsu kêu gọi mọi người tin tưởng, sám hối, kết hiệp
với tình yêu Chúa; hầu sẽ được chữa trị phần hồn, được ơn cứu độ, đó mới
mục đích, là thực thi sứ mạng của Chúa Cha. Bốn vị chài lưới không phải
suy xét hay tò mò, mà xuất phát bởi sự đơn sơ thì đúng hơn, các ông vừa
đủ nghe được âm thanh gọi mời của Thầy Giêsu, cho dù lúc ấy có khá
nhiều người mến yêu Đức Giêsu.
Theo tự nhiên, Thầy giỏi mà không học
trò nào thọ giáo thì vừa uổng phí, vừa không thể minh chứng cho người
đời về khả năng, tài trí bản lãnh của mình…. ? Đức Giêsu thực hiện sứ
mạng cứu độ trần gian, Ngài cần các cộng sự, cần đến tình yêu, sự đáp
trả giữa con người với Thiên Chúa, mà Ngài là trung gian. Vì nơi Đức
Giêsu ngập tràn tình yêu thương : dân chài lưới, người công chính, kẻ
tội lỗi, hoặc chúng ta hôm nay đều có thể tự tin thưa vâng khi Chúa gọi
làm tông đồ, làm chứng nhân tình yêu.
Tuy đau khổ về thân xác, túng thiếu
nghèo đói về tinh thần thời nào cũng có, nhưng để nhận ra lý tưởng hạnh
phúc, người ta chỉ nghe, hiểu về Chúa Giêsu với điều kiện căn bản : sám
hối và tin vào Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Không phải chỉ nơi các môn đệ
đầu tiên ở bờ biển Galilêa, mà tất cả những ai được kêu gọi theo Chúa
đều phải trải qua cuộc hoán cải sâu thẳm trong tâm hồn. Khi bước theo
Thầy Giêsu, các môn đệ năm xưa đã thấy, các ông được biến đổi nên xứng
hợp với chiều kích Tin Mừng trong sứ vụ mới, trong triều đại Nước Thiên
Chúa đã gần đến.
Có thể mỗi chúng ta hôm nay đều không
thích sự rích rắc theo Thầy Giêsu phải từ bỏ nhiều thứ quá, nhất là bỏ
mình ! Đúng là vừa ngán vừa sợ, nếu không hiểu biết Tin Mừng Nước Thiên
Chúa luôn đi liền với sám hối, canh tân, thì chưa thực sự là tin vào Đức
Kitô. Có thể tiền của vật chất, địa vị xã hội gắn liền với con người từ
bao thời nay, đến độ nhiều người hiểu lầm đó là lý tưởng cuộc đời mình !
Thầy Giêsu sẽ không kêu gọi ai làm môn sinh theo chiều hướng tìm kiếm
danh vọng, bổng lộc trần thế…..
Thiên Chúa là tình yêu, nhân từ với tội
nhân, chúng ta sẽ gặp Chúa ở đâu ? Nghe tiếng Thiên Chúa gọi ở nơi nào ?
Cũng có thể, là trong công việc làm ăn hàng ngày ! Thiên Chúa diễn tả
tình yêu nơi Đức Giêsu hẳn rất phong phú, nhất định không phải lúc nào
cũng ở nơi bờ biển Galilêa, hay trong thinh lặng của tu viện, hoặc sự
tình cờ nào đó …..Về phạm vi tự nhiên, nếu ta không đọc sách, thì sách
có giá trị mấy cũng vô nghĩa mà thôi ! Nếu gọi là thuốc tiên mà ta không
dùng thuốc đúng liều lượng, theo chỉ dẫn của y bác sỹ thì làm sao khỏi
bệnh được ?
Trong khi Đức Giêsu gọi chọn các ngư phủ
làm môn đệ, ít nhiều vẫn để lại nhiều thắc mắc : đâu là tiêu chuẩn theo
Chúa, vì ta xứng đáng, tài giỏi, hay do tình yêu thương Chúa muốn. Có
thể Chúa Giêsu xưa kia đã nghĩ tới Giáo Hội hôm nay, và nghĩ tới việc
chúng ta theo Chúa luôn phải đối diện với khó khăn : dễ chán nản, dễ bỏ
cuộc vì chúng ta quá nặng nề tính ích kỷ, phải lo cơm áo gạo tiền, không
thể phân biệt đâu là hạnh phúc thật. Amen.
Về mục lục.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc, SJ.
- “Sau khi Gioan bị nộp”
Bài Tin Mừng theo thánh Mác-cô của Thánh Lễ Chúa Nhật III năm B hôm nay, bắt đầu bằng cách xác định bối cảnh:
Sau khi Gioan bị nộp.
Thánh Gioan “bị nộp”, điều này có nghĩa
là bị bắt, bị giam và bị giết một cách bất công. Đó là kế hoạch của con
người phát xuất từ lòng ghen ghét đi đôi với bạo lực, không chấp nhận
những gì thuộc sự thật và ánh sáng. Nhưng đồng thời đó cũng là, một cách
mầu nhiệm, “kế hoạch của Thiên Chúa”, như Thiên Chúa đã hành động trong
lịch sử cứu độ, và vẫn còn hành động như thế trong lịch sử loài người
và trong chính cuộc đời chúng ta: Ngài nương theo hành trình của sự dữ
và tội lỗi để thực hiện kế hoạch của Người. Thật vậy, sự kiện Gioan bị nộp (in divine passive, ở thể thụ động thần linh) lại loan báo mầu nhiệm Thương Khó của Đức Giê-su, như lời truyền phép trên bánh trong Thánh Lễ:
Anh em hãy nhận lấy mà ăn.
Đây là mình Thầy, sẽ bị nộp vì anh em”.
Đây là mình Thầy, sẽ bị nộp vì anh em”.
Mầu nhiệm Thương Khó vừa mặc khải bộ mặt
thật của Sự Dữ để giải thoát chúng ta khỏi Sự Dữ và tất cả những gì
liên quan đến Sự Dữ, vừa mặc khải khuôn mặt rạng ngời của Thiên Chúa
cũng như sức mạnh và sự khôn ngoan của Người vượt thắng Sự Dữ và sự
chết.
- Tin Mừng Nước Trời
Thời kỳ đã mãn, và Triều Đại Thiên Chúa đã đến gần.
Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.
Nước Trời mà Đức Giê-su rao giảng mời
gọi thực hiện hành trình sám hối. Bởi vì, để đón nhận Nước Trời, chúng
ta phải từ bỏ tất cả những gì ngăn cản chúng ta đón nhận Nước Trời, phải
giữ khoảng cách với tất cả những gì không thuộc về hay không giúp hướng
về Nước Trời. Nhưng đàng khác, Nước Trời cũng lôi kéo chúng ta và làm
chúng ta say mê, vì Nước Trời làm cho no thỏa những khát vọng thâm sâu
và mạnh mẽ nhất của con người. Loài người chúng ta dựng nên bởi Thiên
Chúa và cho Thiên Chúa, vì thế, tự bản chất hướng về Nước của Thiên
Chúa.
* * *
Chúng ta có thể nghĩ đến những kinh
nghiệm “bị nộp’ nho nhỏ hằng ngày của chúng ta: đó là những lúc chúng ta
bị coi thường, không được tôn trọng, bị hiểu lầm, bị phân biệt; và
những kinh nghiệm “bị nộp” lớn hơn: bị ghét, bị loại trừ, bị bách hại.
Nhưng đó lại là những cơ hội tốt, Chúa mời gọi để chúng ta công bố Tin
Mừng của Thiên Chúa, làm chứng cho tình yêu nhưng không của Thiên Chúa,
sống sự “hiền lành và khiêm nhường” của Đức Ki-tô, bày tỏ lòng thương
xót và bao dung của Thiên Chúa, như chính Người sẽ nói:
Người ta sẽ nộp anh em…, nhưng đó là cơ hội làm chứng cho họ được biết.(Mc 13, 9)
Hay đúng hơn và sâu sa hơn, đó là những
cơ hội để cho Đức Kitô đến công bố Tin Mừng của Ngài ngay trong những
khó khăn và thử thách của chúng ta.
- Tin Mừng Nước Trời và ơn gọi
Vẫn chưa hết hoa trái của biến cố “thánh Gioan bị nộp”,
vì đó còn là lúc Chúa thực hiện kế hoạch kêu gọi các môn đệ đầu tiên để
chia sẻ sự sống và sứ mạng của Ngài một cách nhưng không. Điều này giúp
chúng ta hiểu ơn gọi của chúng ta một cách mới mẻ: ơn gọi của chúng ta
thuộc về Tin Mừng Nước Trời, là dấu chỉ của Tin Mừng Nước Trời, của
“Niềm Vui Tin Mừng”, như Đức Thánh Cha Phan-xi-cô nhấn mạnh cách đặc
biệt. Thực vậy, đời dâng hiến, giữa đời hay trong một Hội Dòng, mà Giáo
Hội cầu nguyện, suy tư, canh tân và cổ võ trong Năm Đời Sống Thánh Hiến,
là dấu chỉ sống động của Nước Trời.
Chiêm ngắm cách Người kêu gọi các môn đệ đầu tiên, chúng ta có thể
nhận ra ba đặc điểm, và ba đặc điểm này cũng thuộc về mọi ơn gọi.
a. Đức Giê-su đến tận nơi
Như thánh sử Mác-cô kể lại cho chúng ta
trong bài Tin Mừng, Đức Giê-su đến tận nơi, gặp gỡ và kêu gọi hai lần,
mỗi lần hai anh em:
Người đang đi dọc theo biển hồ
Ga-li-lê, thì thấy ông Si-môn với người anh là ông An-rê, đang quăng
lưới xuống biển, vì họ làm nghề đánh cá.
Đi xa hơn một chút, Người thấy ông
Gia-cô-bê, con ông Dê-bê-đê, và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang
vá lưới ở trong thuyền.
Trong thực tế, chúng ta bỏ nhà đi theo
Chúa trong một ơn gọi, nhưng khi đọc lại hành trình ơn gọi, chúng ta sẽ
nhận ra rằng, chính Đức Giê-su đến gặp gỡ tại nơi chúng ta đang sống,
đang là, chính Người đi bước trước, đến tận nơi chúng ta đang ở, hiện
diện trong hoàn cảnh của chúng ta, gặp gỡ chúng ta khi chúng ta đang
loay hoay “với lưới với thuyền” cùng với những người thân yêu… Chính
Người gõ cửa lòng chúng ta và mời gọi: “Hãy theo Thầy”. Tương tự như sau
đó, Người gọi thánh Mát-thêu:
Đi ngang qua trạm thu thuế, Người
thấy ông Lê-vi là con ông An-phê, đang ngồi ở đó. Người bảo ông: “Anh
hãy theo tôi! ” Ông đứng dậy đi theo Người.
(Mc 2, 14)
b. Người kêu gọi cách nhưng không
Tiếp đến, chúng ta được mời gọi nhận ra
tính nhưng không của ơn gọi. Thật vậy, Đức Giêsu gọi hai anh em Phêrô và
Anrê, hai anh em Giacôbê và Gioan, như các ông đang là, đang lay hoay
với công việc, với những bận tâm của riêng mình, đang bân rộn với lưới
với thuyền cùng với những người thân, khi họ đang bận tâm với những vấn
đề của cuộc sống. Ngài dường như không cần chuẩn bị “lâu dài” các ông
rồi mới gọi; tiếng gọi của Đức Giêsu thật nhưng không, đặt hết lòng tin
nơi người nghe.
Tiếng gọi của Đức Giê-su dành cho mỗi
người chúng ta cũng nhưng không như thế, dù trong thực tế đã diễn ra như
thế nào và đã trải qua những thăng trầm nào. Bởi vì, tiếng gọi của Chúa
tự bản chất là nhưng không. Chúng ta đừng bao giờ để phai nhạt đi sự
ngỡ ngàng đối với tiếng gọi nhưng không của Đức Giêsu: tại sao Chúa lại
gọi con? Tại sao Chúa lại chọn con? Tại sao lại dẫn con đi trên con
đường này? Tại sao Chúa lại sai con? Tại sao Chúa lại trao cho con sứ
mạng này? Tại sao Chúa lại trao cho cho “chén” này?… Chúng ta hãy làm
mới lại sự ngỡ ngàng đối với tiếng gọi của Đức Giêsu, vì đó là động lực
giúp chúng ta làm mới lại lời đáp của chúng ta.
c. Tiếng gọi của Người có sức mạnh
Sau cùng, chúng ta được mời gọi chiêm
ngắm sức mạnh của tiếng gọi. Thật vậy, tiếng gọi của Đức Giê-su mạnh đến
độ làm bật tung « lập tức » (c. 18) các môn đệ đầu tiên ngay tại nơi
các ông đang làm việc cùng với những người thân yêu, nơi ông gắn bó, nơi
nuôi sống các ông và gia đình, nơi là sự nghiệp của ông, là cuộc đời
của ông.
Khi nghe tiếng gọi, hai anh em Simon (là
thánh Phê-rô sau này) và An-rê “lập tức hai ông bỏ chài lưới mà theo
Người”; còn hai anh em Gia-cô-bê và Gioan thì bỏ cha mình là ông
Dê-bê-đê ở lại trên thuyền với những người làm công mà đi theo Người.
Hai anh em kia bỏ công danh sự nghiệp, còn hai anh em này thì bỏ những
người thân yêu, bỏ gia đình êm ấm và khá giả nữa (vì có người làm công).
Lời Chúa có sức mạnh như thế đó, mạnh đến độ làm bật tung các môn đệ
đầu tiên ra khỏi ra khỏi những người các ông đang gắn bó và yêu mến, ra
khỏi các phương tiện nuôi sống các ông và gia đình, ra khỏi sự nghiệp,
ra khỏi những dự tính bình thường của các ông.
Chúng ta còn chậm chạp và dây dưa trong
cách đáp lại, chính là vì chúng ta chưa thực sự nghe được tiếng Chúa. Vì
thế, chúng ta hãy ước ao và quảng đại mở lòng ra để đích thân nghe được
tiếng Chúa gọi với tất cả sức mạnh của Lời Chúa, không chỉ một lần,
nhưng hằng ngày và suốt đời. Lời Chúa sẽ đụng chạm đến chốn sâu thẳm
nhất nơi con người của chúng ta, sẽ biến đổi chúng ta, vì Lời Chúa là
Lời tạo dựng nên chúng ta, là Lời tái tạo chúng ta, và là sự sống mới
của chúng ta.
Tương tự như dân thành Ni-ni-vê, được kể
lại trong bài đọc I của Thánh Lễ hôm nay, Lời Chúa được công bố ngang
qua lời rao giảng của ngôn sứ Gio-na, đã biến đổi toàn diện và tặn căn
như thế nào cả một thành đô:
Dân Ni-ni-vê tin vào Thiên Chúa, họ công bố lệnh ăn chay và mặc áo vải thô, từ người lớn đến trẻ nhỏ!(Gi 3, 1-5)
Và để cho Lời Chúa được gieo và sinh hoa
kết quả trong lòng chúng ta, thánh Phao-lô mời gọi chúng ta, trong bài
đọc II, sống sự thật này mỗi ngày, một sự thật rất đời thường, nhưng lại
hay bị gạt bỏ, vì thế chúng ta thường hay tuyệt đối hóa những điều
tương đối:
Thời gian chẳng con bao lâu nữa… Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi.
(1Co 7, 29.31)
* * *
Ơn gọi thiết yếu là một tương quan: Chúa
gọi và chúng ta đáp lại, như trường hợp các môn đệ đầu tiên : Đức
Giê-su mời gọi : « Các anh hãy đi theo tôi », và « lập tức các ông bỏ
chài, bỏ thuyền, bỏ cha mà theo Người”. Vì đây là ơn gọi đầu tiên của
mọi ơn gọi trong Giáo Hội mà Đức Giê-su sẽ thiết lập, nên cách Ngài gọi
các môn đệ đầu tiên chính là nền tảng của mọi ơn gọi; và nền tảng thì
luôn luôn hiện diện trong cuộc đời chúng ta, trong mỗi ngày sống và nhất
là mỗi khi chúng ta lựa chọn.
Ơn gọi hiểu như thế, thì không thể chỉ
là một biến cố đã qua, nhưng phải được sống và hiện tại hóa hằng ngày,
thậm chí phải diễn ra hằng ngày. Ngài đi ngang qua đời ta mỗi ngày, và
lúc nào ngài cũng thấy chúng ta đang loay hoay làm cái gì đó, bận tâm
chuyện gì đó. Ngài gọi chúng ta thật nhưng không, bao dung và quảng đại;
và chúng ta được mời gọi đáp lại cách nhưng không, bao dung và quảng
đại như lời đáp đầu tiên của chúng ta trong bước đường tìm hiểu và sống
ơn gọi dâng hiến.