Lời Chúa: Is 43,18-19.21-22.24b-25; 2Cr 1,18-22; Mc 2,1-12
1. Niềm vui được giải thoát
2. Đức tin trong sáng – ĐTGM. Ngô Quang Kiệt
3. Bại liệt
4. Niềm tin bật nóc bật tường
5. Đức tin làm bật nóc bật tường
6. “Xin lỗi… hoặc tôi không cần được tha thứ”
7. Cung cách thần linh dẫn dắt cung cách nhân loại
8. Bệnh trầm trọng, thì thuốc phải thật mạnh
9. Quyền tha tội
10. Cần cứu chữa tâm hồn trước – Lm Trần Ngà
11. Chữa người bất toại
12. Ơn tha thứ
13. Lòng nhân từ của Chúa
14. Chữa lành
15. Sự tha thứ
16. Tại sao?
17. Chúa thấy họ có lòng tin mạnh
18. Bí tích Giải tội
19. Phép lạ
20. Bốn người khiêng
21. Bại liệt tinh thần
22. Đức Giêsu chữa lành người bại liệt - JKN
23. Tin Chúa có quyền làm phép lạ và tha tội
24. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
25. Chú giải của Noel Quesson
26. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà Lạt
-----o0o-----
Trong quyển sách “Tên buôn lậu của
Thiên Chúa” mà tác giả là một vị linh mục thừa sai người Hà Lan, có
thuật câu chuyện về một chú khỉ như sau: Ngày nọ, vị thừa sai đang đi
truyền giáo ở Inđônêxia có mua được một con khỉ rất dễ thương từ một
người bản xứ. Nhưng sau đó ông nhận thấy chú khỉ này thường nhăn mặt và
kêu lên đau đớn mỗi lần ông chạm phải thắt lưng chú ta. Sau khi quan sát
kỹ lưỡng, ông khám phá ra có một vết sưng ngang hông vòng quanh người
chú khỉ. Ông liền đè chú khỉ ra, vén lớp lông phủ quanh vết sưng để tìm
nguyên nhân. À thì ra từ khi chú khỉ còn bé xíu, người chủ cũ đã dùng
một sợi dây thép buộc ngang hông để làm chỗ cột dây và cho tới nay sợi
dây thép đó vẫn chưa được tháo ra.
Khi chú khỉ này ngày càng lớn lên, thì
sợi dây càng lặn sâu thêm vào da thịt chú. Chiều hôm đó, vì thừa sai
quyết định giải thoát cho chú bằng cách dùng một lưỡi lam cạo sạch vùng
lông bao quanh sợi dây, rồi cắt sợi dây thép và từ từ kéo ra khỏi da
thịt con vật tội nghiệp. Trong thời gian làm việc này, chú khỉ kiên nhẫn
nhắm mắt và im lặng chịu đau. Rồi đến khi vị thừa sai lấy được sợi thép
ra thì chú ta mừng quá nhảy tới nhảy lui rồi ôm chặt lấy vai vị thừa
sai. Thế là chú khỉ đã được giải thoát khỏi sợi dây kẽm gây bao đau đớn
mà chú phải chịu đựng bấy lâu. Chú ta tỏ ra rất vui mừng vì được tự do
và bày tỏ lòng biết ơn đối với người vừa giải thoát cho mình.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào
đoạn Tin Mừng hôm nay. Khi Đức Giêsu nói với người lại liệt: “Này con,
con đã được tha tội rồi”, và nhất là sau lời Ngài tuyên bố: “Ta truyền
cho con hãy đứng dậy, vác lấy chõng của con và đi về nhà!” anh ta vừa
được tha tội vừa được giải thoát khỏi chứng bệnh tê liệt, vốn là hậu quả
của tội, ắt hẳn anh ta cũng cảm thấy vui mừng hân hoan. Anh ta đã lập
tức vác chõng ra về, vừa đi vừa dâng lời ca tụng ngợi khen Thiên Chúa.
Có người nào trong chúng ta nhiều năm
sống lạc xa Chúa, ngụp lặn trong đam mê tội lỗi bất chính và tâm hồn
luôn phiền muộn bất an. Thế rồi một ngày kia, được ơn Chúa trợ giúp,
người ấy quyết tâm giải thoát mình khỏi tình trạng tội lỗi ấy bằng cách
dọn mình đi xưng tội. Nhờ thành tâm sám hối, người ấy đã xưng thú mọi
tội lỗi và cảm nhận được một niềm vui lớn lao trong tâm hồn sau khi ra
khỏi toà giải tội. Vậy điều quan trọng nhất để được tha tội là gì? Đó là
phải “sám hối ăn năn” vì lòng sám hối ăn năn chính là một thứ tiền để
mua lấy ơn tha thứ, chính là những bước chân đầu tiên trên con đường trở
về cùng Chúa, chính là sự cộng tác nhỏ bé, nhưng lại rất cần thiết của
chúng ta với ơn Chúa tha thứ. Vì như lời thánh Augustino đa viết: Để tạo
dựng nên chúng ta, Chúa không cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu
chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta ưng thuận và cộng tác với Người, bởi
vì Ngài sẽ không thể cứu chuộc chúng ta, nếu như chính bản thân chúng ta
lại không muốn.
Người bại liệt chịu nhiều thiệt thòi.
Không làm được những việc cần làm. Không đến được những nơi muốn đến.
Đức Giêsu làm phép lạ chữa nhiều bệnh. Tin ấy lan tới mọi hang cùng ngõ
hẻm thành Ca-phác-na-um. Người bại liệt nghe biết, nhưng ông không làm
cách nào đến gặp Đức Giêsu để xin Người chữa lành. Đó là hình ảnh của
những tâm hồn bại liệt. Chúa vẫn rộng rãi ban phát ân huệ của Người,
nhưng những tâm hồn bại liệt, dù muốn cũng không thể đến lãnh nhận được.
Có tâm hồn bại liệt vì yếu đuối. Tâm
hồn yếu đuối bị những đam mê, dục vọng đè bẹp, không sao chỗi dậy được.
Đam mê, dục vọng giống như những sợi dây, rất mềm mại nhưng cũng rất
chặt chẽ. Tâm hồn bị đam mê, dục vọng trói buộc sẽ trở nên tê liệt, thấy
những điều tốt đẹp nhưng ngại ngùng phấn đấu, mất hết ý chí chỗi dậy,
vươn lên.
Có tâm hồn bị bại liệt vì do dự. Tâm
hồn do dự có nhiều ước muốn tốt đẹp, nhưng cứ mãi băn khoăn suy tính,
rồi cơ hội qua đi mà vẫn không làm được điều mong muốn. Truyện ngụ ngôn
kể lại: có con ngựa vừa đói vừa khát. Người ta đem đến một máng cỏ và
một máng nước. Con ngựa cứ quay sang máng nước rồi lại quay sang máng
cỏ, không biết nên ăn hay nên uống trước. Sau cùng nó chết vì đói và vì
khát. Ngạn ngữ Pháp có câu: Hỏa ngục được lát bằng những ước muốn tốt.
Ước muốn suông mà không làm sẽ chẳng giúp thăng tiến thân phận con
người.
Có tâm hồn bị bại liệt vì chai đá. Tâm
hồn chai đá hoàn toàn mất hết khả năng ước muốn điều lành, thờ ơ với
việc thăng tiến bản thân, dị ứng với những việc đạo đức. Đây là thứ bại
liệt đáng sợ nhất.
Người bại liệt trong Tin Mừng đã tìm ra
phương thế để đến với Chúa. Ông nhờ những người thân khiêng tới. Cảnh 4
anh em khiêng người bại liệt, trèo lên mái nhà, rỡ ngói, thả chiếc cáng
xuống trước mặt Đức Giêsu, cho ta thấy một đức tin đơn sơ trong sáng.
Đức tin đơn sơ trong sáng không suy
tính, do dự, nhưng cương quyết bắt tay vào việc làm. Nhìn thấy việc phải
làm, họ bắt tay vào làm ngay không để chậm trễ, không mất thời giờ bàn
bạc, so đo, tính toán, trốn tránh trách nhiệm. Biết người bệnh cần gặp
Đức Giêsu, họ lập tức đi tìm cáng và bảo nhau khiêng người bệnh đến
ngay.
Đức tin đơn sơ trong sáng lập tức lên
đường, không chịu ngồi lỳ một chỗ. Đã quyết là lên đường ngay, không
ngần ngại vì đường xa, không e dè vì gánh nặng. Họ khiêng người bệnh,
nhưng bước chân vẫn thoăn thoắt, ánh mắt vẫn tin tưởng, nụ cười vẫn vui
tươi vì tâm hồn họ luôn luôn sẵn sàng lên đường.
Đức tin đơn sơ trong sáng giúp họ đồng
tâm nhất trí với nhau. Niềm tin chân thực loại trừ mọi xung khắc bất
đồng, dẫn đến đoàn kết, hợp tác, cùng nhau làm những việc tốt có ích lợi
cho người khác.
Đức tin đơn sơ trong sáng không lùi
bước trước khó khăn. Gặp đám đông vây quanh, chắn lối đến với Đức Giêsu,
họ không sờn lòng nản chí, không bàn chuyện tháo lui, nhưng cương quyết
tìm biện pháp khắc phục những khó khăn. Đã nỗ lực đổ mồ hôi để khiêng
người bệnh đến, giờ đây họ lại phải nỗ lực vận dụng mọi trí não để tìm
cách đưa người bệnh đến tiếp cận Đức Giêsu. Đức tin trong sáng đã làm
cho trí khôn họ trở nên sáng suốt. Họ mau chóng tìm được một lối khác để
đến với Người.
Đức tin đơn sơ trong sáng có những sáng
kiến tuyệt với, táo bạo. Không vào được cửa chính, họ trèo lên mái nhà.
Không có cửa thì họ làm ra cửa. Tháo rỡ mái nhà quả là một biện pháp
táo bạo. Biện pháp táo bạo càng chứng tỏ đức tin mãnh liệt của họ.
Đức tin trong sáng có sự tế nhị nhẹ
nhàng. Chắc chắn họ phải xin phép chủ nhà và sau đó, phải lợp lại mái
nhà hẳn hoi tử tế. Trước sự tế nhị của họ, chắc chắn chủ nhà phải hài
lòng và cảm phục.
Đức tin trong sáng không nhiều lời. Tự
những việc làm đã nói nhiều hơn những bài diễn văn lê thê. Họ chưa nói
lời nào để cầu xin Chúa, nhưng nhìn thấy người bệnh được thòng xuống
trước mặt mình, Đức Giêsu và tất cả mọi người đều thấy được đức tin của
họ, và Đức Giêsu đã chữa bệnh trước khi họ cầu xin.
Nhìn vào đức tin trong sáng của 4 người
khiêng, ta thấy đức tin của mình đang còn bị tê liệt, không hoạt động.
Ta bị tê liệt vì những đam mê dục vọng trói buộc. Ta bị tê liệt vì những
lười biếng thiếu cố gắng. Ta bị tê liệt vì những ước muốn nửa vời. Ta
bị tê liệt vì lòng nguội lạnh thiếu nhạy cảm trước những nhu cầu thiêng
liêng.
Hôm nay, ta hãy noi gương 4 người
khiêng bệnh nhân. Hãy ra khỏi tình trạng tê liệt tâm hồn. Hãy lên đường,
ra đi đừng ngại ngùng, do dự. Hãy biến đức tin thành những việc làm
chuyên chở đức bác ái. Hãy phấn đấu vượt qua mọi khó khăn. Hãy sống đức
tin một cách sáng tạo, vui tươi và đoàn kết. Một đức tin như thế sẽ trở
thành ngọn đèn phá tan đi bóng tối đang phủ vây giăng mắc, soi đường cho
ta đi đến với Chúa, cùng đích của đời ta.
Lạy Chúa, xin hãy thêm đức tin cho con. Amen.
CÂU HỎI GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ.
1- Tình trạng đức tin của bạn hiện nay ra sao? Đang hoạt động hay bị tê liệt?
2- Đức tin của bạn đang bị những chứng tê liệt nào?
3- Khi nhìn ngắm đức tin của những người khiêng bệnh nhân bất toại, bạn nghĩ gì về lòng tin của bạn? Lòng tin của bạn còn thiếu những nét nào?
4- Đức tin trong sáng có những đặc điểm nào?
3. Bại liệt1- Tình trạng đức tin của bạn hiện nay ra sao? Đang hoạt động hay bị tê liệt?
2- Đức tin của bạn đang bị những chứng tê liệt nào?
3- Khi nhìn ngắm đức tin của những người khiêng bệnh nhân bất toại, bạn nghĩ gì về lòng tin của bạn? Lòng tin của bạn còn thiếu những nét nào?
4- Đức tin trong sáng có những đặc điểm nào?
Khi người bại liệt được đưa xuống trước mặt Đức Giêsu, Ngài cảm nhận ngay lòng tin mạnh mẽ của họ.
Lòng tin không chịu lùi bước trước khó khăn: phải vượt qua đám đông chật cứng trước cửa.
Lòng tin tìm ra con đường khác thường để đến với Đức Giêsu: không qua bằng cửa chính, nhưng bằng lỗ hổng ở mái nhà.
Lòng tin mang tính tập thể, đồng tâm
nhất trí: người bại liệt cần bốn người bạn khiêng mình, bốn người khiêng
đồng ý cùng nhau giúp người bại liệt.
Lòng tin đòi nỗ lực, đổ mồ hôi: khoét một lỗ to, khiêng lên mái, rồi từ từ thả xuống.
Lòng tin đòi sự tế nhị, nhẹ nhàng: phải
xin phép chủ nhà và phải sửa lại mái nhà sau đó, phải khéo léo khi dỡ
mái ngay trên chỗ Đức Giêsu ngồi.
Lòng tin đòi sự liều lĩnh: có thể Đức
Giêsu coi việc làm như vậy là khiếm nhã, có thể Ngài bực bội vì bài
giảng của mình bị xáo trộn.
Người nằm chõng và các người khiêng đều
có lòng tin. Nhìn họ, ta thấy mình tin ít biết chừng nào. Tin đâu phải
chỉ là thái độ của ý chí, mà của cả con người, đầu để nghĩ, tay để làm.
Nhìn họ, ta thấy mình chưa thực sự biết
muốn. Nếu ta thực sự muốn và thực sự tin vào Chúa, thì ta đã có thể ra
khỏi sự bại liệt của mình từ lâu.
"Này con, các tội của con được tha".
Người bại liệt chờ được khỏi, còn Đức Giêsu lại tha tội cho anh. Phải chăng tội là nguyên nhân cội rễ của sự bại liệt?
Có lần Đức Giêsu nói với một người bại liệt khác: "Anh đã được khỏi. Đừng phạm tội nữa, kẻo phải khốn hơn" (Ga 5,14).
Tha tội là chữa bệnh bại liệt của tâm
hồn. Như thế cuối cùng anh được giải phóng cả hồn lẫn xác. Khi anh đứng
dậy, vác chõng mà đi về nhà, chúng ta thấy anh được tự do, hết bị trói
buộc: trói buộc vào chõng và trói buộc vào tội.
Các kinh sư bực bội khi nghe câu: "Tội
con được tha." Họ hiểu là Đức Giêsu tự cho mình quyền tha tội. Như thế
là phạm thượng, là tiếm quyền của một mình Thiên Chúa.
Chúng ta cần nhìn các kinh sư. Họ ngồi
một chỗ, không hề mở miệng, chỉ nghĩ trong lòng. Họ bị khô cứng, kẹt
cứng trong một nguyên tắc đúng. Họ không tin Thiên Chúa có thể chia sẻ
quyền này cho Đức Giêsu. Ngay khi người bại liệt đi được, có lẽ họ vẫn
không tin. Họ vẫn ngồi đó với những định kiến của mình. Cả thân xác lẫn
tinh thần của họ không dám chuyển động, không dám mở ra để thấy cái gì
khác hơn, mới hơn mà trước đây họ chưa hề nghĩ tới. Rốt cuộc thì ai bại
liệt hơn ai?
Xin Chúa cho chúng ta thấy mình dễ bị
bại liệt, dễ khép lại trong những xác tín và công thức chắc nịch, đến
nỗi mất khả năng đón nhận những vén mở bất ngờ của Chúa.
Gợi Ý Chia Sẻ
• Khi nhìn ngắm lòng tin của người bất
toại và bốn người khiêng, bạn nghĩ gì về lòng tin của bạn? Lòng tin của
bạn còn thiếu những nét nào?
• Các kinh sư không tin Đức Giêsu, vì họ tin chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Làm sao để lòng tin của chúng ta không làm chúng ta khép lại trước những vén mở bất ngờ và mới mẻ của Thiên Chúa?
• Các kinh sư không tin Đức Giêsu, vì họ tin chỉ mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Làm sao để lòng tin của chúng ta không làm chúng ta khép lại trước những vén mở bất ngờ và mới mẻ của Thiên Chúa?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa, xin ban cho con đức tin lớn hơn hạt cải, để con làm bật rễ khỏi lòng con những ích kỷ và khép kín.
• Xin cho con đức tin can đảm để con chẳng sợ thiệt thòi khi trao hiến, chẳng sợ từ bỏ những gì con cậy dựa xưa nay.
• Xin cho con đức tin sáng suốt để con
thấy được thế giới mà mắt phàm không thấy, thấy được Đấng Vô Hình, nhưng
rất gần gũi thân thương, thấy được Đức Kitô nơi những người nghèo khổ.
• Xin cho con đức tin liều lĩnh, dám
mất tất cả chỉ vì yêu Chúa và tha nhân, dám tiến bước trong bóng đêm chỉ
vì mang trong tim một đốm lửa của Chúa, dám lội ngược dòng với thế gian
và khước từ những mời mọc quyến rũ của nó.
• Xin cho con đức tin vui tươi, hạnh
phúc vì biết những gì đang chờ mình ở cuối đường, sung sướng vì biết
mình được yêu ngay giữa những sa mù của cuộc sống.
• Cuối cùng, xin cho con đức tin cứng
cáp qua những cọ xát đau thương của phận người, để dù bao thăng trầm dâu
bể, con cũng không để tàn lụi niềm tin vào Thiên Chúa và vào con người.
Nhà ở đây nằm vuông vức dưới nắng
Galilê, mái nhà làm như sân thượng, bên ngoài nhà có một cầu thang nhỏ
để leo lên… và đám đông bu lại chật cứng ngôi nhà, lan ra chung quanh.
Thế thì làm sao mà đưa được người tê bại nằm chõng, cùng với bốn trự lực
lưỡng khiêng chõng? Ôi thôi, kệ xác nó! Nó, hoặc người nhà nó, đã làm
cái gì đấy thì Đức Chúa Trời mới phạt như thế chứ! Thời Đức Giêsu, người
ta tin như đinh đóng cột rằng tàn tật, bệnh hoạn và tội lỗi gắn bó với
nhau.
Nhưng mấy cái tên ngổ ngáo này chẳng
coi ai ra gì cả, chẳng biết kiêng nể gì cả. Tội nghiệp, chúng kéo ngay
người bệnh lên sân thượng, rồi chúng khoét lỗ mái nhà. Mái này hẳn là
mái đất trộn với rơm rạ: bao nhiêu là người trong nhà đưa đầu đưa cổ ra
để hứng bụi, hứng vữa… Bây giờ chúng mới thòng chõng cùng người bại liệt
qua lỗ mái nhà; người ta đành xô đẩy nhau để tránh chỗ của chúng nó.
Còn Đức Giêsu? Đức Giêsu nhìn thấy chúng nó có “lòng tin”.
Cái gì điên hơn?
Niềm tin ư? Đó là chọc thủng mái nhà.
Là đánh cuộc cả đời mình trên cái vô hình, cái mà người ta không bao giờ
nhìn thấy. Đó là dựa vào Thiên Chúa để “sáng tạo” – để làm phát sinh
cái chưa hiện hữu, cái mà người ta chưa nghe nói đến, cái khó tin, đôi
khi điên khùng: Chọc thủng mái nhà.
Tin, là khiêu khích cho Đức Giêsu làm
cái không thể làm được. Người sẽ nhận lời thách thức. Người cũng chọc
thủng mái, mái này dầy hơn mái nhà. Người sắp thâm nhập con người bại
liệt kia, con người tù hãm kín bưng trong tật nguyền của mình, để nói
với hắn một lời chưa từng ai nghe, một lời điên cuồng: “Tội lỗi của con
đã được tha”.
Không! Có thể nào đập vỡ cái vỏ bọc kín
con người khi nó đã đặc, đã cứng qua bao nhiêu mối ngổn ngang, bao
nhiêu bần tiện, bao nhiêu đấm đá của cõi đời? Có thể nào kêu lên trong
lòng nó: “Tội lỗi của con đã được tha”, như thể đời nó sắp tìm lại được
cái vẻ tươi mát của một khuôn mặt trẻ thơ?
Cái gì điên hơn? Chọc thủng mái nhà, hay đột nhập vào bên trong con người đó, mà mời gọi nó hãy sống như thể vừa sơ sinh?
Chọc thủng bức tường bê tông thành kiến xã hội
Đã đành là có những người nhìn Đức
Giêsu bằng cặp mắt cú vọ. Những người muốn giữ gìn cuộc đời mình sao cho
khỏi phải liều mình vì chuyện không thể có. Họ đã bắt Thiên Chúa phục
vụ cho não bảo thủ của họ. Để họ còn có thể đem đồng loại nhốt chuồng,
trói cọc: “Tại sao người này lại nói như thế? Phạm thượng. Chỉ có mình
Thiên Chúa mới có thể tha tội”.
Quang cảnh sắp trở nên quái lạ hơn nữa.
Đức Giêsu đã thấu rõ tâm tưởng họ, thế là Người dồn họ vào cơn sửng sốt
tột độ. “Cái gì dễ hơn? Nói với người bất toại: “Tội lỗi của con đã
được tha, hay là nói: Hãy đứng dậy, vác chõng mà đi?”. Ta như nghe được
cả sự yên lặng nín thở của những người chứng kiến. Đức Giêsu quay lại
nhìn con người mà không còn sức đứng lên: “Hãy chỗi dậy, vác chõng mà về
nhà”. Maccô nói thêm như thể chính mắt vẫn còn nhìn thấy: “Người ấy
đứng dậy” (Mc 2,12) Cần phải nhắc lại: vào thời Đức Giêsu, người bệnh bị
coi như kẻ tội lỗi và do đó như một kẻ bị gạt ra bên lề xã hội.
Chuyện gì đã xảy ra? Đức Giêsu đã cho
một người đứng vững lại, đã hoàn trả hắn lại cho một cuộc sống “ra
người” tưởng như đã tàn lụi ở nơi hắn, đã cho hắn phục hồi chỗ đứng của
mình trong xã hội, đã cho hắn bước vào cuộc đời một lần nữa.
Đục mái, đục tường, đục thủng những gì
làm tê bại thân xác và lòng người, đục thủng bê tông thành kiến và những
kỳ thị loại trừ của một xã hội… để gọi đến đây cái không thể có, đó là
chuyện xảy ra chung quanh Đức Giêsu cách đây hơn hai mươi thế kỷ… và
ngày nay?
Đức tin đã cằn cỗi rồi chăng?
Người ta đã có thể tố cáo các người
theo Kitô giáo là có một đức tin không thay đổi gì thế giới, đôi khi lại
còn tôn phong sự bất công và những điều ngang trái đã trở thành cường
quyền. Nhiều người ngày nay nghĩ rằng Kitô giáo đã cạn nguồn sống phong
nhiêu của mình đối với lịch sử, và từ nay đạo khô cằn. Những lời trách
cứ ấy không phải bao giờ cũng vô căn cứ, và chúng ta phải nghe, không
phải để nuôi dưỡng một thứ lo âu bệnh hoạn, nhưng để kích thích sự sống
của ta trong Thần Khí.
Với những người có lòng đạo thời đó,
Đức Giêsu thường chỉ rõ ràng họ phải đón nhận tiếng gọi của Nước Thiên
Chúa qua tác phong và lời nói của những kẻ mà người ta coi là ‘kẻ
ngoại’. Sau khi nghe viên bách quản La Mã, Đức Giêsu đã làm cho đồng bào
của mình ngẩn người kinh ngạc khi Người kêu lên: “Quả thật, Ta không
tìm được một lòng tin như thế nơi Israel”.
Lòng tin ư? Giả sử có ai hỏi viên bách
quản, hay hỏi bốn anh vừa khoét mái nhà, rằng tin những điều gì hãy
tuyên xưng ra, thì không biết họ sẽ ấp úng làm sao? Hẳn họ sẽ chẳng có
những nhận định dài dòng, mà chỉ nói rằng họ đã nghe nói về quyền năng
tỏa ra từ Đức Giêsu, và họ mong đợi Ngài sẽ chữa lành bệnh, phục hồi sự
sống, làm điều không thể có.
Tin, trước hết là một chuyển động trong sự sống.
Trong quá khứ, phải chăng các Kitô hữu đã từng thu hẹp lòng tin khi lầm lẫn lòng tin với những công thức, trong khi TIN trước tiên là sự sống của ta chuyển động vì giao tiếp với Đức Giêsu? Có một niềm ham sống mới lạ mà Đức Giêsu đi tới đâu là cho lây, cho lan ra tới đó; nó gây nên nơi các Kitô hữu, trong Hội Thánh, và tùy theo mỗi nền văn hóa và mỗi thời đại, một tư duy không dứt về Thiên Chúa, về những con đường của Ngài nơi chúng ta, về sự hiện diện sinh động của Ngài; lòng tin cũng là tri thức, nó mặc lấy lớp áo ngôn từ, lớp áo của những tác phẩm đạo lý, những hệ thống thần học, nhưng như Đức Giáo Hoàng Gioan 23 nói trong bài diễn văn khai mạc Công Đồng: “Bản chất của đạo lý và lớp vỏ công thức để diễn bày đạo lý là hai cái khác nhau”. Ngôn ngữ và tư tưởng là đường chúng ta đến với Thiên Chúa thật đấy, nhưng ngôn ngữ và tư tưởng không bao giờ cầm hãm được Thiên Chúa. Bởi Thiên Chúa bao giờ cũng lớn hơn, sống hơn. Đức tin trước tiên là gặp được Đức Giêsu, để thấy Ngài luôn mới lạ, luôn tái tạo sự sống.
Trong quá khứ, phải chăng các Kitô hữu đã từng thu hẹp lòng tin khi lầm lẫn lòng tin với những công thức, trong khi TIN trước tiên là sự sống của ta chuyển động vì giao tiếp với Đức Giêsu? Có một niềm ham sống mới lạ mà Đức Giêsu đi tới đâu là cho lây, cho lan ra tới đó; nó gây nên nơi các Kitô hữu, trong Hội Thánh, và tùy theo mỗi nền văn hóa và mỗi thời đại, một tư duy không dứt về Thiên Chúa, về những con đường của Ngài nơi chúng ta, về sự hiện diện sinh động của Ngài; lòng tin cũng là tri thức, nó mặc lấy lớp áo ngôn từ, lớp áo của những tác phẩm đạo lý, những hệ thống thần học, nhưng như Đức Giáo Hoàng Gioan 23 nói trong bài diễn văn khai mạc Công Đồng: “Bản chất của đạo lý và lớp vỏ công thức để diễn bày đạo lý là hai cái khác nhau”. Ngôn ngữ và tư tưởng là đường chúng ta đến với Thiên Chúa thật đấy, nhưng ngôn ngữ và tư tưởng không bao giờ cầm hãm được Thiên Chúa. Bởi Thiên Chúa bao giờ cũng lớn hơn, sống hơn. Đức tin trước tiên là gặp được Đức Giêsu, để thấy Ngài luôn mới lạ, luôn tái tạo sự sống.
TIN ấy là tính “người” của Thiên Chúa
đột hiện nơi Đức Giêsu: Họ đã chọc thủng mái nhà. “Thấy lòng tin của họ,
Đức Giêsu nói với người bất toại: “Tội lỗi của con đã được tha”. Người
làm cho hắn tái sinh ở ngay trong chính mình hắn, Người làm cho hắn tái
sinh cho một tập thể vốn coi hắn như rác. Một lời thôi, Đức Giêsu biến
đổi một con người; đồng thời Người đảo lộn xã hội, đảo lộn những tầng
lớp nề nếp cố cựu, cùng những lý lẽ toa rập lấy đạo đức cùng tôn giáo để
biện minh cho cái xã hội ấy. Mãnh lực cách mạng của sự tha thứ tội lỗi,
tái sinh con người, chân trời vô giới hạn Đức Giêsu mở ra trước loài
người. Làm sao đức tin có thể hao gầy mòn mỏi đi, đến mức một số người
có vẻ như thu teo nó lại thành một bộ giáo điều, trong khi nó là sự sống
trào ra, vọt ra, là tính người của Thiên Chúa đột hiện nơi Đức Giêsu?
Cách đây khoảng hai mươi năm, René
Maheu định nghĩa tổ chức UNESCO là “tổ chức của hy vọng”, và ông thêm:
“Con người mà chúng tôi tin vào, mà chúng tôi ra công kiến tạo, đó không
phải là con người của lịch sử hay huyền thoại quá khứ, nhưng là con
người của tương lai, con người ấy khi hoàn thành thì so với tiến trình
hiện tại này, nó cũng siêu việt như ý thức so với thiên nhiên vậy. Một
thực thể ở chân trời”… Nếu nhắm về tương lai con người mà có thể diễn tả
một cách sắc bén như vậy, thì biết nói gì về lòng tin của Kitô giáo,
cũng một lòng tin mà vừa tin vào con người nơi Thiên Chúa vừa tin vào
cao vọng của Thiên Chúa nơi con người?”.
“Đây ta làm một thế giới mới”
Đôi khi trong Hội Thánh, người ta than
vãn vì xã hội ngày nay mất đức tin, nhất là giới trẻ. Rồi người ta so
sánh này nọ với một quá khứ thường được lý tưởng hóa. Cái đức tin bảo
rằng đã ‘mất’ đó là đức tin gì? Vấn đề này có thể khảo sát lâu lắc. Đó
có phải là đức tin chọc thủng mái nhà ở Caphácnaum chăng? Đó có phải là
đức tin Đức Giêsu thán phục, đức tin cách mạng cuộc sống của cả một xã
hội chăng?
Đã đành là ta sẽ bất công nếu vội kết
luận, nếu quên đi sức mạnh và tội lỗi của thế gian, và chỉ chuyên tố cáo
rằng các Kitô hữu đã thiếp ngủ? Nhưng quả thật là đã đến giờ, đến phút
phải nhận ra rằng nhiều người đang chờ đợi ở chúng ta, ở Giáo Hội, tất
cả sức mạnh linh lợi nguyên tuyền của Tin Mừng.
Điều khẩn bách ấy, vị ngôn sứ đã nhân
danh Thiên Chúa lớn tiếng bảo chúng ta: “Đừng nhớ chuyện ngày xưa nữa,
đừng nghĩ về quá khứ nữa. Đây Ta làm một thế giới mới: nó đã hiện lên
rồi, các người không thấy sao?”
5. Đức tin làm bật nóc bật tường - Lm Nguyễn Văn Trung
Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót.
Người luôn chạnh lòng thương những ai thành tâm thiện chí đến với
Người. Con Một Chúa xuống trần gian là để cho con người được sống và
sống dồi dào. Chính vì thế, suốt hành trình rao giảng của Đức Giêsu, đi
đến đâu Ngài cũng thực hiện bao phép lạ để chữa lành bệnh tật mọi người.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau suy niệm về chặng đường
của người bất toại từ lúc còn mang bệnh cho đến khi gặp được Đức Giêsu
và đựơc Ngài Chữa lành, để qua đó chúng ta thấy được điều kì diệu của
niềm tin vào Đức Kitô phục sinh.
Tại làng Ca-phác-na-um ngừơi ta vẫn
thường trông thấy một người bất toại nằm bên đường. Đã bao tháng năm
rồi, và cũng có thể là từ lúc mở mắt chào đời, anh đã mang trên mình một
thương tật. Anh không thể đi lại bằng đôi chân của mình. Vết thương này
đã trói buộc cuộc đời anh vào cái chõng, để rồi đi đâu hay làm gì anh
đều phải nhờ đến ngừơi khác giúp đỡ. Anh không thể tự mình xuống bếp để
bê chén cơm hay chén nước, dù chỉ để phục vụ mình thôi. Đã bao lần anh
ứơc mong được cùng mọi ngừơi say sưa nơi đồng ruộng hay nơi phố phường
nhưng anh đã không thể. Đã bao lần anh ước mong được cùng mọi người đến
ngôi giáo đường để xem lễ đọc kinh nhưng không được. Tất cả chỉ vì
thương tật anh mang trên mình. Anh khát khao được đi lại bằng chính đôi
chân của mình, để sống cuộc đời bình thường như bao ngừơi khác. Chỉ là
một ước mơ bình thường thôi nhưng xem ra đã vượt quá tầm với của anh.
Thôi đành phó mặc cho trời vậy.
Ngày đêm anh vẫn cầu mong sẽ có một
đấng nào đó có thể đến giải phóng cuộc đời anh, đấng ấy sẽ cất cho anh
gánh nặng này. Lời nguyện cầu của anh đã vọng tới trời cao, giây phút
thay đổi cuộc đời anh đã tới khi hay tin Đức Giêsu trở về làng
Ca-phác-na-um, nơi anh đang sinh sống. Người ta đồn rằng Đức Giêsu có
thể làm cho người mù được thấy, người điếc được nghe, kẻ què đi được,
thậm chí người chết cũng có thể sống lại. Khát vọng khỏi bệnh và niềm
tin mạnh mẽ đã thôi thúc anh tìm mọi cách để đến gặp Đấng có thể chữa
lành là Đức Giêsu Kitô. Khát vọng chính đáng này đã được những người bạn
của anh đồng thuận khi họ chấp nhận khiêng anh đến gặp Đức Giêsu.
Con đường đến với Đức Giêsu cũng thật
gian lao và lắm thử thách. Anh phải vượt qua mặc cảm của bản thân mình,
vì người ta vẫn xem anh như là hiện thân của kẻ tội lỗi. Anh không thể
đến gần Đức Giêsu, vì dân chúng bao quanh Người quá đông. Bấy giờ anh
chỉ còn cách nhờ những người bạn của mình treo lên mái nhà, dỡ một lỗ
hổng và thả anh xuống nơi Đức Giêsu đang giảng cho dân chúng. Khi được ở
kề bên Đức Giêsu, anh cũng không thể thốt lên được lời nào, dù chỉ là
một lời van xin. Bởi anh ý thức được thân phận tội lỗi của mình. Anh chỉ
biết trông chờ vào lòng thương xót của Chúa mà thôi. Nỗi lòng của anh
và của những người bạn nhiệt thành đã được ánh mắt giàu lòng thương xót
của Chúa nhìn đến. Người thấu suốt nỗi thống khổ mà anh đang phải gánh
chịu. Đặc biệt là Người thấy được niềm tin mạnh mẽ nơi anh và cả những
người bạn của anh. Chính vì thế mà phần thưởng lớn lao dành cho anh là
“Này con, tội con được tha rồi”. Một câu nói thật bất ngờ đối với mọi
người và ngoài sức ngoài sức tưởng tượng của anh. Bởi lẽ, anh đến với
Đức Giêsu chỉ với hi vọng được chữa lành căn bệnh thể xác anh đang mang
mà thôi. Và, anh nguyện suốt đời sẽ làm những việc lành phúc đức để đền
đáp công ơn này. Nhưng giờ đây anh không những được chữa lành thương tật
thể xác mà còn được sạch cả về tâm hồn, đó là được tha hết mọi tội lỗi,
trả lại cho anh tước vị làm con của Thiên Chúa, làm công dân của nước
Trời, và cho anh được hưởng trọn vẹn giá trị của một kiếp người ở nơi
dương thế này.
Anh đứng dậy, vác chõng đi ra trước sự
mừng rỡ hân hoan của bạn bè và của mọi người. Từ trong sâu thẳm đáy lòng
anh rộn lên một niềm vui khôn tả. Anh vui vì từ nay mình có thể đi lại
bằng chính đôi chân của mình. Từ nay người ta không còn xem anh là người
tội lỗi nữa. Anh có thể hoà nhập với cộng đồng và sống cuộc sống bình
thường như bao người khác. Anh cảm nghiệm được tình thương yêu vô bờ bến
mà Chúa đã dành cho mình. Anh nhận ra được quyền năng vô biên của Đức
Kitô sau những gì Người đã làm cho anh. Tất cả những điều đó như tiếp
lửa để anh mừng rỡ hân hoan và vững vàng tin tưởng để bước vào đời sống
mới.
Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,
Khi suy niệm về chặng đường đức tin của
người bất toại, chúng con cũng tự xét lại đời sống đức tin của mỗi
người chúng con, để xin lòng thương xót của Chúa. Một cách nào đó, chúng
con đang là những người bất toại, không phải về thể xác nhưng là về tâm
hồn, vì đức tin chúng con được đón nhận ngày chịu phép rửa giờ đây đã
bị tổn thương. Nhiều lúc trong cuộc sống chúng con vẫn hoài nghi vào
quyền năng và tình thương của Chúa. Xưa Chúa phán rằng chỉ cần chúng con
có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù chúng con có bảo núi này rời
khỏi đây, qua bên kia nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà chúng con
không làm được. Vậy xin Chúa luôn gìn giữ đức tin yếu kém của mỗi người
chúng con để rồi dù gặp gian lao thử thách trong đới sống đức tin thì
chúng con vẫn trung kiên với Chúa mãi đến cùng. Amen.
6. “Xin lỗi… hoặc tôi không cần được tha thứ”. (Suy niệm của Yvon Daigneault)
Tiếp cận
Một đề tài nổi bật trong Tin Mừng Chúa
nhật hôm nay: việc tha thứ tội lỗi. Ta gặp ngay những khó khăn lớn lao: ý
thức về sự tha thứ của Chúa đã giảm sút, người ta xác tín là không cần
ơn tha thứ để tái tạo con người: hơn nữa, chúng ta sống trong một xã hội
không còn cần đến sự tha thứ ngay cả trong ngôn ngữ: Kẻ còn nói “xin
tha thứ cho tôi” xem ra như là một con người đến từ thời xa xưa nào.
Làm sao nói về sự tha thứ đây? Dường
như điều này đã khó khăn với Chúa Giêsu cũng như đối với chúng ta vậy.
Ta hãy bắt chước cách thức của Ngài: bắt đầu bằng một hình ảnh lớn, cụ
thể, có tính thách thức và gây chú ý, như hình ảnh bệnh bại liệt! Từ đó
ta có thể rút ra vài ý chính:
- Còn bi đát hơn bại liệt thể xác, đó là bại liệt tâm hồn.
- Tội lỗi của chúng ta, không phải tội
của những tổ chức đa quốc gia nhưng là chính tội lỗi của chúng ta là
nguyên nhân gây nên thứ bại liệt này.
- Thiên Chúa đến cứu vớt chúng ta khi giải thoát chúng ta, khi tái tạo chúng ta bằng việc tha thứ.
Bị bại liệt
Nhưng chúng ta không biết bại liệt là
như thế nào? Có lẽ chúng ta đã có kinh nghiệm về một chi thể bất động do
bởi bị bó bột trong vài tuần lễ. Chúng ta đã làm cho những người xung
quanh bực bội do những lời than vãn và sự gắt gỏng, trong lúc chúng ta
mơ ước mau chóng được hoạt động lại như trước. So với việc toàn thân
không thể nhúc nhích, không làm được những cử động đơn giản nhất, những
việc thiết yếu nhất cho cuộc sống, bởi lẽ không có thuốc nào chữa được
và các dây thần kinh không vâng theo sự điều khiển của bộ não nữa, thì
kinh nghiệm kia không là gì cả.
Chúng ta cũng có thể bị bại liệt trong
tâm hồn và trong lòng, vì đã cắt đứt một tình yêu hoặc một tình bạn, vì
đã làm một việc bất công khi hủy diệt một người về mặt tinh thần. Chúng
ta có thể hủy hoại cuộc sống bằng dối trá, hận thù, tham vọng.
Trước mặt Thiên Chúa
Người ta đưa một kẻ bất toại đến với
Chúa Giêsu mặc dù người này có vẻ lơ là đối với cơn bệnh của mình, nhưng
Chúa Giêsu đề cập đến điều chính yếu, đến thứ bại liệt thực sự, thâm
sâu bóp nghẹt linh hồn con người này, những tội lỗi đã tách lìa không
thể thoát khỏi được. Dù tội lỗi của người ấy thế nào đi nữa, tình trạng
tội lỗi của anh ta cho thấy phần nào tình trạng của chúng ta, cho thấy
một điều tương tự mà chúng ta cảm nhận được: nỗi bất lực hoàn toàn trước
mặt Thiên Chúa!
Ơn tha thứ
Quan sát công việc một nhà vật lý trị
liệu làm cho một kẻ bại liệt thật là một điều lạ lùng: mátxa, tập lại
những cử động, những động tác đề nghị cùng với những lời khuyến khích,
nâng đỡ sự cố gắng của bệnh nhân. Rồi sau nhiều này tháng, người ta thấy
một bệnh nhân dường như đã chết nay được tái sinh. Tác động của Chúa
đối với kẻ tội lỗi là chúng ta đây phần nào cũng giống như thế.
Nếu Chúa nói với chúng ta: tội của con
được tha rồi, tức là Ngài thực hiện cho chúng ta một hành động sáng tạo
và giải thoát, một hành động mà nhờ đó chúng ta được đổi mới và có được
phẩm chất sống, làm cho chúng ta đi vào mối tương quan mới mẻ với Ngài.
Việc tha thứ của Thiên Chúa không phải là một thứ thủ tục tinh thần có
thể tóm tắt ở việc nhìn nhận rằng Chúa đã quên hay làm ngơ tội lỗi của
ta. Việc Chúa tha thứ là tạo nên một con người mới nhờ tất cả những gì
mà Chúa ban cho chúng ta: sự tự do, tư cách làm con cái Ngài, ân sủng và
niềm vui trong tâm hồn.
Để kết luận
Khi đã bị liệt lâu ngày mà lại đứng dậy
được nhờ sự chăm sóc của một nhà vật lý trị liệu, chúng ta sẽ hết sức
sung sướng ngỡ ngàng. Vậy chúng ta không sung sướng ngỡ ngàng sao khi
được liên lỉ tái sinh nhờ lòng thương xót của Thiên Chúa?
7. Cung cách thần linh dẫn dắt cung cách nhân loại (Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’)
Có một số điều mà các bạn không thể
làm. Các bạn không thể làm cho chiếc xe hơi chạy mà trong thùng xăng chỉ
có nước. Các bạn không thể giữ thực phẩm lạnh và tươi trong một tủ lạnh
mà nếu các bạn không cắm điện vào và bật công tắc lên. Không người nào
có thể tha thứ tội lỗi với quyền lực của một con người.
Các luật sĩ quan sát Chúa Giêsu khi
Ngài tuyên bố: “Tội lỗi đã được tha thứ”, thì hoàn toàn đúng với sự bất
bình của họ: “Ai có thể tha tội ngoại trừ một mình Thiên Chúa”. Nhưng họ
đã thiếu điều cơ bản là họ không biết thân phận của Chúa Giêsu. Bởi vì
Chúa Giêsu là thần linh, ngang với Cha trên trời trong mọi sự, Ngài có
thể tha thứ tội lỗi bằng chính quyền năng của Ngài. Tuy nhiên, Ngài đã
làm như vậy trong cách loài người. Chúa Giêsu có thể tha thứ tội lỗi một
cách dễ dàng cho người bại liệt bởi một hành động đơn giản của Ngài.
Thay vì thế, Ngài đã nhìn cách thương xót người bại liệt và nói một cách
quyền năng với lời của con người: “Này con, tội của con đã được tha”.
Trong Chúa Giêsu, chúng ta thấy rằng cung cách thần linh đã dẫn dắt cung
cách của nhân loại.
Chúa Giêsu đã xác định sức mạnh nơi lời
của Ngài bằng một phép lạ. Bởi vì sự tha thứ tội lỗi thì vô hình, không
thể chứng thực quyền năng nơi lời Ngài nhưng khi ngài nói với kẻ bị bại
liệt: “Hãy đứng lên cuốn chiếu và đi về nhà”, mọi người đều nhìn về
phía người bại liệt để xem những lời của Chúa Giêsu có thành hiện thực
không. Nhưng khi người đàn ông đứng lên thì đó là một dấu hiệu cho mọi
người thấy rằng, Chúa Giêsu không chỉ chữa lành người đàn ông với lời
của Ngài mà Ngài thật sự có quyền tha thứ tội lỗi của ông bởi lời của
Ngài.
Nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa đã làm một
điều mới mẻ. Trước đó chưa hề có bất cứ ai đã nghe một lời tha thứ nào
giống như những lời tha thứ của Chúa Giêsu. Những lời của Ngài và quyền
năng của Ngài vẫn tiếp tục xảy ra trong Giáo Hội, bởi vì cung cách thần
linh của Thiên Chúa vẫn còn hiện diện nơi cung cách của nhân loại.
Một linh mục không thể tha thứ tội lỗi
dựa trên chính mình. Ông cần được Giáo Hội “bật khóa” theo ý muốn của
Đức Kitô, sự tha thứ trở nên hữu dụng bằng cách của Giáo Hội. Đó là lý
do vì sao mà những lời tha tội của Bí ích giải tội gồm có những lời kinh
quan trọng này: “Bằng thừa tác vụ của Giáo Hội, xin Thiên Chúa ban cho
con sự tha thứ và bình an”.
Nhưng ai là Giáo Hội có quyền tha thứ
tội lỗi? Với Chúa Giêsu, đó là câu hỏi về căn cước của Ngài. Giáo Hội
thì cao hơn là một xã hội, hoặc một nhóm người. Giáo Hội là một mầu
nhiệm. Giáo Hội thật sự là chính Đức Kitô, tiếp tục trong không gian,
thời gian và được thông chuyển cho dân của người (định nghĩa của Giám
mục Bossuet) qua Giáo Hội, Chúa Giêsu đã chọn một cách tự do để mang lấy
cung cách nhân loại và sứ vụ giao hòa thần linh của Ngài.
Người liệt hầu như bất ngờ với sự sung
sướng khi lấy lại được khả năng bước đi trên đôi chân của mình, ông ta
đã hạnh phúc một cách sâu xa khi thấy tội lỗi của mình đã được tha thứ
và kinh nghiệm phép lạ một cách nào đó sẽ củng cố sự giải thoát khỏi tội
lỗi của ông. Giống như đám đông, ông cũng bàng hoàng. Và cùng với họ,
ông dâng lên lời ngợi khen Thiên Chúa.
Là những người Công giáo, một trong những ơn lớn nhất của chúng ta nhận từ nơi Thiên Chúa là Bí tích giải tội. Chúng ta cũng được chúc phúc để nghe tiếng của con người diễn tả sự tha thứ của chúng ta và cảm thấy sự đụng chạm giao hòa của bàn tay con người. Khi chúng ta cảm nghiệm được điều này với đức tin, chúng ta cũng sẽ cảm thấy bàng hoàng, dâng lời cám ơn và tạ ơn Thiên Chúa vì sự quảng đại và đặc ân kỳ diệu từ lòng nhân từ lớn lao và tốt lành của Thiên Chúa.
8. Bệnh trầm trọng, thì thuốc phải thật mạnh (Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest.)Là những người Công giáo, một trong những ơn lớn nhất của chúng ta nhận từ nơi Thiên Chúa là Bí tích giải tội. Chúng ta cũng được chúc phúc để nghe tiếng của con người diễn tả sự tha thứ của chúng ta và cảm thấy sự đụng chạm giao hòa của bàn tay con người. Khi chúng ta cảm nghiệm được điều này với đức tin, chúng ta cũng sẽ cảm thấy bàng hoàng, dâng lời cám ơn và tạ ơn Thiên Chúa vì sự quảng đại và đặc ân kỳ diệu từ lòng nhân từ lớn lao và tốt lành của Thiên Chúa.
Sự nghiên cứu về văn chương đoạn Phúc
âm này của Marcô đem đến nhiều tranh luận. Quả thật, khi biên soạn cuốn
Phúc âm, Marcô dự tính chứng minh dần dần rằng: Chúa Giêsu là Con Thiên
Chúa. Vậy mà ở đây, thánh sử kể lại một phép lạ mô tả Chúa Giêsu không
những như một người có quyền năng khác thường, có nền giáo huấn mới mẻ,
nhưng còn như một Đấng có quyền tha tội. Vậy là Chúa Giêsu tự quả quyết
mình ngang hàng với Thiên Chúa. Do đó câu hỏi được đặt ra là: bài này có
phải đã trình bày một sự pha trộn giữa sự giải thích với một sự kiện
không? Sự kiện đó là sự chữa lành thể xác cho người tê liệt đã xảy ra từ
buổi đầu khi Chúa Giêsu ra đi thi hành sứ mạng. Sự giải thích sự kiện,
tức là sự trông thấy xuyên qua việc chữa lành kia, dấu chỉ chứng thực
rằng Chúa Giêsu có quyền tha tội, và như vậy, tức Người là Thiên Chúa,
chỉ mới có sau này. Như vậy có nên kết luận là thánh sử Marcô đã thuật
lại những chuyện sai lịch sử chăng? Trái lại, khi thuật lại câu chuyện
thánh sử đã mô tả việc này xảy ra với tất cả sự đứng đắn bằng cách tiết
lộ cho ta thấy qua một phương pháp hành văn hoàn toàn được chấp nhận, ý
nghĩa và sự sâu sắc thực sự của sự kiện xảy ra. Marcô chứng minh Chúa
Giêsu đang dần dần mạc khải Người là Con Thiên Chúa, nhưng ngay từ phần
đầu của đoạn Phúc âm này, đó đây, thánh sử đã vẽ lên những nét báo trước
sự kết thúc. Ở đây, chúng ta có lẽ đứng trước 1 trường hợp thường hay
xảy ra trong Thánh Kinh, đó là trường hợp mà tương quan vật chất của một
sự kiện được phong-phú-hóa bằng sự chỉ dẫn cho thấy mầu nhiệm mà sự
kiện đó muốn nói lên. Sau khi xác định như vậy, chúng ta nắm vững được
Chân lý nếu chúng ta đọc đoạn Phúc âm này của Marcô bằng cách để cho sự
đơn sơ cao đẹp và tuyệt diệu của tác giả chinh phục chúng ta. Có hai chi
tiết. Người ta nghĩ rằng căn nhà trong đó Chúa Giêsu dừng chân khi từ
Caphanaum về chính là căn nhà của Phêrô. Đàng khác, chi tiết lạ lùng dỡ
mái nhà cũng không có chi là khó tin. Mái những căn nhà vào thời đó là 1
thứ sân thượng mà người ta lên được nhờ một cầu thang bên ngoài, cho
nên quả là tương đối dễ, khi muốn mở ra một lỗ bằng cách cất đi ít viên
ngói là xong.
Chúng ta hãy nêu lên hai giáo huấn quan trọng:
1) ‘Hỡi con, tội lỗi con đã được tha’.
Chúa Giêsu mở đầu bằng câu nói đó, có lẽ là vì Người muốn ghép mình vào
não trạng quần chúng đương thời, khi dân chúng quan niệm rằng: mọi bệnh
tật đều là hậu quả của tội lỗi, hoặc là tội lỗi của người bịnh, hoặc là
tội lỗi của cha mẹ y. Nhưng mau mắn, Chúa đã đi từ bình diện này qua
bình diện kia. Chữa bịnh phần xác rồi, Chúa đặt ngay hành động Người như
một dấu hiệu của sự chữa lành về phần thiêng liêng mà Người mang đến
cho nhân loại. Sự đau ốm phần sâu xa gấp bội đang đục khoét con người
trong cả bản thể. Bịnh hoạn nói chung thật ra là hậu quả của thái độ xấu
xa và bạc phước trong đó con người đang đắm chìm, khi chống lại Thiên
Chúa. Chính đó là cái bất hạnh căn bản mà Chúa Giêsu muốn chữa và Người
loan báo điều đó khi phán: ‘Tội con được sạch’.
2) Tại sao lại có những tư tưởng ấy
trong lòng các ngươi? Chúa Giêsu đặt câu hỏi đó cho cử tọa của Người, là
những kẻ không sẵn sàng chấp nhận ai ai ngược lại các ý kiến của họ.
Chúng ta đừng vội lên án họ… Vào địa vị họ khi đó, chúng ta đã phản ứng
thế nào? Hôm nay đây, Chúa cũng đặt câu hỏi ấy cho chúng ta mỗi khi
Người gặp một sự chống đối nào đó nơi chúng ta. Nhân danh những cái mà
chúng ta cho là ‘những nguyên tắc tốt’, chúng ta đặt lên những chướng
ngại cho những hồng ân mới lạ mà Thiên Chúa bất thần ban cho chúng ta
hay Giáo Hội. Điều quan trọng là chúng ta phải sẵn sàng đón nhận những
cái mới lạ của Thánh Linh, song dĩ nhiên điều quan trọng là chúng ta
phải nhìn nhận những cái mới lạ đó thật sự là của Thánh Linh. Chính là
vấn đề: sự sẵn sàng đối với Chúa, và trên bình diện các bảo đảm cho sự
chân thật, sự tùng phục chung quyết đối với quyền hành của Giáo Hội.
9. Quyền tha tội (Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Người Do Thái vẫn coi mọi thứ bệnh tật
là hình phạt của tội lỗi. Ngay các môn đệ của Chúa Giêsu, khi gặp người
mù từ khi mới sinh cũng hỏi Chúa: “Thưa Thầy, do tội của ai mà người này
bị mù vậy? Tội của anh ta hay của cha mẹ anh ta?”.
Nếu quan niệm bệnh tật là hậu quả của
tội lỗi, thì không gì hợp lý và dễ dàng bằng tha tội trước rồi chữa bệnh
sau. Bởi vì tiêu diệt được nguyên nhân thì tự nhiên hậu quả sẽ biến
mất. Đó là điều Chúa Giêsu đã làm cho người bại liệt như bài Tin Mừng
hôm nay kể lại:
Trong khi Chúa Giêsu giảng dạy tại nhà
ông Phêrô, có bốn người khiêng đến cho Chúa Giêsu một người bại liệt nằm
bất động trên chiếc chõng, nhưng đường phố đầy người nghẽn cả lối vào.
Họ cố tìm cách chen vào nhưng không được. Nhưng bốn người ấy không nản
lòng. Nhà của ông Phêrô cũng như mọi nhà người Palestin, chỉ có một tầng
với mái bằng, phía ngoài có cầu thang lên. Bốn người khiêng người bất
toại vòng qua đám đông, lên mái nhà, họ dỡ mái nhà làm thành một khoảng
trống, rồi thòng dây thả người bại liệt xuống nhà, ngay bên chân Chúa
Giêsu. Họ chỉ đặt đó thôi, chứ không nói năng xin nài gì hết. Ai cũng
hiểu họ muốn gì. Hiểu ý họ. Chúa Giêsu nắm lấy cơ hội. Họ muốn một, Chúa
cho hai. Thay vì chữa bệnh thể xác liền, Chúa chữa bệnh cho tâm hồn
người bại liệt trước. Ngài đi xa hơn sự mong chờ của mọi người. Bởi vì
nếu quan niệm bệnh tật là do tội lỗi, thì không gì hợp lý và dễ dàng cho
bằng tha thứ tội lỗi trước. Chúa Giêsu đã không lấy quyền của Ngài mà
tuyên bố rằng Thiên Chúa tha tội cho anh: “Tội anh đã được tha”, nhưng
người Biệt Phái rất khó chịu và nghĩ trong lòng rằng Chúa Giêsu là người
lộng ngôn phạm thượng. Vì chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội, còn
ông chỉ là người mà dám tha tội cho kẻ khác.
Để tỏ cho nhóm Biệt Phái biết Ngài là
ai, Chúa Giêsu đã làm cả hai việc: vừa tha tội vừa chữa bệnh. Việc này
chứng minh cho việc kia; việc chữa lành chứng minh cho việc tha tội. Bởi
vì nếu người bại liệt không được tha tội thì khó mà có thể được khỏi
bệnh. Hay nói cách khác: nếu anh bại liệt không khỏi bệnh thì đó là dấu
tội lỗi anh ta vẫn còn y nguyên và Chúa Giêsu thực là người lộng ngôn
phạm thượng, lừa bịp dân chúng. Ngược lại, nếu anh bại liệt được tha tội
thì việc khỏi bệnh thể xác sẽ xảy ra ngay. Bởi đó, khi Chúa Giêsu ra
lệnh cho anh “hãy chỗi dậy vác chõng mà về” và việc đó thực sự đã xảy ra
như vậy, thì lời Ngài nói trước đó: “tội anh đã được tha” chắc chắn
cũng đã xảy ra đúng như lời Ngài nói, tuy dù người ta không cảm thấy,
không trông thấy ơn tha tội, nhưng đã có việc khỏi bệnh chứng minh cho
việc tha tội. Vì thế dân chúng chứng kiến đã ca tụng: “chúng tôi chưa
từng thấy như thế bao giờ”. Chúng tôi chưa từng thấy ai có quyền được
tha tội trừ Thiên Chúa. Chúng tôi cũng chưa từng thấy ai chỉ truyền một
lời là bệnh nhân được bình phục. Vậy đúng Ngài là Thiên Chúa, là: “Con
Người có quyền tha tội”.
Trước kia, nguồn gốc tha tội ở trên
trời cao, nơi Thiên Chúa. Bây giờ, Chúa Giêsu quả quyết rằng: bởi vì Con
Người đã đến trần gian, nguồn ơn tha tội đã được chuyển từ trời xuống
đất. Nguồn ơn tha tội đã đặt nơi một con người lịch sử: Chúa Giêsu Kitô.
Tha tội ở trần gian hôm nay là làm trước công việc mà Ngài sẽ làm trong
ngày: “Con Người sẽ hiện đến trên mây trời” để phán xét vào ngày tận
thế.
Thưa anh chị em,
Sách Tin Mừng đã ghi lại nhiều phép là
Chúa Giêsu đã làm: chữa bệnh tật, làm cho người chết sống lại, hóa bánh
ra nhiều… Ngài đã làm những phép lạ đó thường là vì lòng thương xót
người ta. Thương người bệnh tật đói khát, thương gia đình mất người thân
yêu… Chúa Giêsu đã đến cho người ta thấy Thiên Chúa yêu thương loài
người chúng ta và Ngài đã chứng tỏ tình thương đó bằng cách giúp đỡ loài
người một cách cụ thể.
Nhưng tình thương của Thiên Chúa không
phải chỉ giúp đỡ đời sống vật chất hay thể xác của con người, mà còn
muốn cứu chữa con người toàn diện, cả hồn và xác. Vì vậy, những phép lạ
của Chúa Giêsu còn có ý nghĩa sâu xa hơn: đó là những dấu chỉ của ơn cứu
độ mà Ngài đem đến cho nhân loại. Chẳng hạn, khi làm cho người mù sáng
mắt. Ngài cho thấy Ngài là ánh sáng thật cho chúng ta nhìn ra: “Đấng cứu
độ”. Khi bánh hóa ra nhiều cho dân chúng ăn no, Ngài cho thấy Ngài là:
“Bánh hằng sống” đem lại sự sống đời đời cho chúng ta. Khi chữa người
bại liệt như Tin Mừng hôm nay kể lại, Ngài cho thấy Ngài có quyền tháo
gỡ con người khỏi xiềng xích trói buộc của tội lỗi. Ngài đã chữa bệnh
tận căn. Ngài giải thoát nhân loại khỏi tội lỗi là nguồn gốc phát sinh
đau khổ, bệnh tật và sự chết; đồng thời Ngài kêu gọi nhân loại đi theo
đường lối đó cùng với Ngài, để tiêu diệt tận căn gốc của mọi đau khổ,
bệnh tật, chết chóc mà con người gây ra cho nhau.
Với thiếu phụ ngoại tình được Ngài cứu
cho khỏi bị ném đá, Chúa đã căn dặn: “Thôi chị về đi, và đừng phạm tội
nữa”. Với người bại liệt 38 năm bên bờ hồ Bethsaida, Chúa cũng chỉ có
một lời nhắn nhủ: “Đó, con đã được lành mạnh rồi, đừng phạm tội nữa, kẻo
lại bị khốn khổ hơn” điều quan trọng là: “Đừng phạm tội nữa”.
Anh chị em thân mến,
Thiên Chúa của chúng ta là Thiên Chúa
hay thương xót và tha thứ. Sự thánh thiện và công bình đòi phải trừng
phạt tội nhân, nhưng lòng nhân từ lại thúc đẩy Ngài phải tha thứ. Đã
được Chúa tha thứ, chúng ta cũng phải biết tha thứ cho anh em và nhất là
đừng phạm tội nữa. Sở dĩ chúng ta còn: “cứ phạm tội nữa” là vì chúng ta
chưa tin rằng Thiên Chúa yêu thương chúng ta. Nếu đã tin Thiên Chúa yêu
thương chúng ta thì chúng ta không thể cứ xúc phạm hoài đến người mình
yêu thương được. Niềm vui của chúng ta là tin rằng Chúa yêu thương chúng
ta và tội lỗi chúng ta đã được tha thứ. Chắc chắn chúng ta sẽ sống xứng
đáng hồng ân tha thứ ấy.
Chúa Giêsu đã không chỉ tha thứ một
cách dễ dàng qua lời nói, nhưng bằng chính sự hy sinh mạng sống mình
trên thập giá. Kính nhớ công cuộc cứu chuộc qua cái chết và sự sống lại
của Chúa Giêsu, chúng ta hãy cảm tạ Chúa Cha đã thương ban Con Một xuống
cứu độ nhân loại. Tham dự vào mầu nhiệm cứu chuộc này, chúng ta quyết
tâm chiến đấu chống lại tội lỗi, đến với Chúa Kitô, quyết tâm sống cho
Thiên Chúa, Đấng đã cứu chuộc chúng ta.
10. Cần cứu chữa tâm hồn trước – Lm Trần Ngà (Trích trong ‘Cùng Đọc Tin Mừng’)
Khi thân nhân của người bại liệt khiêng
anh ta đến gần Chúa Giê-su, họ đụng phải một bức tường sống: quá đông
dân chúng đang vây bọc quanh Chúa Giê-su và không ai chịu nhường chỗ cho
những người đang khiêng nạn nhân đến với Người. Rốt cuộc, họ đành phải
dỡ mái nhà ngay trên chỗ Chúa Giê-su đang đứng, thòng người bất toại
xuống để xin Người cứu chữa.
Có lẽ đây là ca bệnh khẩn cấp cần phải
được cứu chữa kịp thời không thể trì hoãn. Thế nên, những người khiêng
đã nóng nảy tìm cách đưa bệnh nhân tiếp cận Chúa Giê-su bằng mọi giá, dù
phải tháo dỡ mái nhà.
Khi đã thòng bệnh nhân từ mái nhà xuống
ngay trước mặt Chúa Giê-su, lẽ ra, Chúa Giê-su phải ưu tiên chữa trị
người nầy khỏi bệnh đã, mọi chuyện khác sẽ bàn sau. Vậy mà Chúa Giê-su
không chữa trị thân xác ngay mà quan tâm đến việc chữa lành tâm hồn
trước. Người ban ơn tha tội cho người bệnh trước. Người phán: "Tội con
đã được tha", dẫu biết rằng nói như thế sẽ làm cho những người biệt phái
bắt bẻ, sinh thêm rắc rối phiền hà.
Sau khi cứu linh hồn bệnh nhân khỏi
tội, trả lại cho tâm hồn anh sức khoẻ thiêng liêng, Chúa Giê-su mới xét
đến việc cứu chữa thân xác anh. Người phán: "Anh hãy đứng dậy vác chõng
mà về. Người bại liệt đứng dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi
người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa."
Qua sự kiện nầy, Chúa Giê-su tỏ cho
thấy cần phải ưu tiên chữa trị tâm hồn trước khi chữa trị thân xác, vì
những rối loạn, những tổn thương trong tâm hồn là nguyên nhân đưa đến
những tổn thương phần xác. Y khoa xác nhận có nhiều bệnh tật thể xác
(thân bệnh) phát sinh do những tổn thương từ nội tâm (tâm bệnh). Thân
bệnh là do tâm bệnh. Vì thế, muốn điều trị tận căn, muốn trị dứt điểm
căn bệnh thể xác thì phải chữa trị tận gốc, tức chữa trị trong tâm hồn.
Minh hoạ: Hôm nọ, ông Năm bị kỹ luật
nặng tại sở làm và do đó tâm hồn ông bị tổn thương nghiêm trọng. Từ vết
thương tâm hồn đó, thân xác ông bắt đầu có những biểu hiện bệnh lý: bình
thường ông rất vui vẻ, cười nói huyên thuyên, hôm nay bỗng sa sầm nét
mặt, lầm lì ít nói.
Mang vết thương lòng ấy về nhà, vừa
bước qua ngưỡng cửa, vấp phải cái chổi nằm giữa đường, ông nổi giận co
chân đá nó văng ra xa và bắt đầu mắng vợ, điều mà từ trước tới nay chưa
bao giờ xảy ra: "Đồ làm biếng, đàn bà vô tích sự, cái chổi nằm chình ình
ngay giữa phòng khách mà cũng không biết cất dọn nó đi."
Kế đó, đứa con cưng đi học mới về, thấy
mặt ba hầm hầm, vội lảng tránh qua phòng khác, không vui vẻ chào hỏi
như mọi khi; ông liền quát tháo: "Nầy Thảo, mầy câm rồi ư? Sao thấy tao
mà mầy không ra chào? Thầy Cô dạy mầy thế hả? Mẹ mầy dạy mầy thế hả?"
Thế là chiến sự bắt đầu bùng nổ trong gia đình.
Một tổn thương trong tâm hồn có thể làm
bùng lên một trận chiến trong gia đình hay trong cộng đồng ta đang
sống. Sóng gió trong lòng sẽ tạo nên bão tố bên ngoài. Mất bình an nội
tâm là nguyên nhân của những xung đột với những người chung quanh.
Thế nên, muốn dập tắt sóng gió trong
gia đình và cộng đồng thì phải diệt trừ sóng gió trong tâm hồn trước;
muốn có hoà bình thuận thảo với tha nhân thì trước hết cần phải có an
bình nội tâm; muốn tránh xung đột với những người chung quanh thì trước
hết hãy củng cố sự bình an tâm hồn.
Chính vì thế, trước khi chữa trị cho
người bệnh về phần xác, Chúa Giê-su cứu chữa tâm hồn anh ta đã. Người
cứu chữa tâm hồn bệnh nhân bằng ơn tha tội để tâm hồn anh được lành lặn
và bình an, rồi sau đó mới chữa trị phần xác. Tâm hồn và thân xác con
người cũng chỉ là một. Hồn xác hoàn toàn tuỳ thuộc vào nhau. Bệnh của
tâm hồn (tâm bệnh) tất nhiên sẽ lan sang thân xác (thân bệnh). Muốn chữa
lành tận gốc thân bệnh, người thầy thuốc khôn ngoan tìm cách chữa trị
tâm bệnh trước.
Hiện nay, một số quốc gia đã lập nên
những trung tâm y tế dự phòng tiên tiến. Tại đây, thầy thuốc ân cần hỏi
han trò chuyện với bệnh nhân để truy ra gốc bệnh từ trong tâm hồn và đề
ra những phương thức điều trị rất hiệu quả mà không cần thông qua xét
nghiệm lâm sàng và thậm chí không cần cả thuốc men.
Tội lỗi như một thứ virus độc hại gây bệnh cho tâm hồn và từ đó thân xác và cuộc sống chúng ta cũng bị ảnh hưởng theo.
Vậy chúng ta hãy tìm đến với lương y
Giê-su với bất cứ giá nào như trường hợp người bại liệt được thuật lại
trong Tin Mừng hôm nay, để được Người tha thứ tội lỗi và chữa lành tâm
bệnh cho chúng ta, và rồi thân bệnh cũng sẽ nhờ đó mà được chữa lành.
11. Chữa người bất toại (Trích trong ‘Mỗi Ngày Một Tin Vui’ – Radio Veritas Asia)
Một điểm trong phép lạ chữa người bất
toại được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay đáng chúng ta lưu ý, đó là Chúa
Giêsu không nói ngay: "Ta chữa lành cho con", nhưng Ngài nói với người
bất toại: "Con đã được tha tội rồi". Qua đó, Chúa Giêsu mạc khải Ngài là
Thiên Chúa, bởi vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Chính những kẻ
chống đối Chúa Giêsu cũng nghĩ như thế, và vì không tin Ngài là Thiên
Chúa, cho nên họ nghĩ thầm rằng: "Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông
ta nói phạm thượng". Nhưng Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này để một lần nữa
chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài đọc thấu tư tưởng thầm kín của họ.
Ngài bảo họ: "Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy?" Rồi Ngài
nói với những kẻ không tin: "Trong hai điều: một là bảo người bất toại:
"Con đã được tha tội", hai là bảo: "Đứng dậy, vác chõng mà đi", điều nào
dễ hơn". Thật ra, hai điều này đều khó, và Chúa Giêsu quả quyết: "Để
các ông biết: ở dưới đất, Con Người có quyền tha tội, Ta truyền cho anh
hãy đứng dậy, vác chõng đi về nhà", lập tức người ấy đứng dậy vác chõng
mà đi trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên
Chúa.
Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ để
chứng minh Ngài có quyền tha tội, vì Ngài là Thiên Chúa. Như những người
chống đối Chúa, ngày nay cũng có nhiều người không chấp nhận quyền tha
tội của Chúa, quyền này đã được Chúa trao cho các Tông đồ, và qua các
ngài cho Giáo Hội. Giáo Hội vẫn tiếp tục công việc tha tội trong Bí tích
sám hối và hòa giải. Nhờ Bí tích này, tội nhân sau khi lãnh Bí tích rửa
tội được ơn tha thứ và làm hòa với Thiên Chúa. Từ ít lâu nay, có một
cơn khủng hoảng đối với Bí tích giải tội: nhiều người không còn lãnh
nhận Bí tích giải tội, không còn quí trọng ơn tha tội, vì đã đánh mất ý
thức về tội lỗi: có thể họ cần được Thiên Chúa ban cho điều này điều nọ,
nhưng không thấy cần được Thiên Chúa tha cho những tội đã phạm.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta trở
về với tác vụ chính của Chúa Giêsu ngay từ đầu: tác vụ tha tội, hòa giải
con người với Thiên Chúa. Ước gì chúng ta luôn ý thức về tội lỗi và quí
trọng ơn tha thứ qua Bí tích giải tội.
Có một chàng thanh niên mua được một
chú khỉ. Thế nhưng cứ mỗi lần anh ta đụng vào thắt lưng, chú khỉ lại tỏ
ra đau đớn và khó chịu. Sau khi xem xét kỹ lưỡng, anh ta khám phá ra một
vệt sưng vòng quanh hông chú khỉ. Thì ra khi còn nhỏ, chú khỉ đã bị
ngưới ta dùng một sợi dây thép cột quanh hông và cho tới nay vẫn chưa
được tháo ra. Chú khỉ càng lớn, sợi dây càng lặn sâu vào da thịt.
Chiều hôm đó, anh ta cẩn thận cắt sợi
dây thép và kéo ra khỏi da thịt chú khỉ. Chú khỉ mừng quá, nhảy tới nhảy
lui rồi ôm chặt vai anh ta. Thế là chú khỉ được tự do thoải mái, không
còn bực bội, khó chịu và đau đớn như trước nữa.
Câu chuyện trên khiến chúng ta nhớ tới
lời Chúa Giêsu nói với chàng thanh niên bại liệt được chữa lành: Tội con
đã được tha. Chắc hẳn chàng cũng vui mừng như thế, bởi vì chàng không
còn bị sợi dây đau đớn ràng buộc nữa. Chàng được tha tội và được chữa
lành bệnh bại liệt, chẳng khác nào chú khỉ được giải thoát khỏi sợi dây
thép. Vì thế, chàng hết sức vui mừng và dâng lời ngợi khen Thiên Chúa.
Hình như ai trong chúng ta cũng đã từng
có kinh nghiệm nhờ bí tích Hòa giải, chúng ta được giải thoát khỏi một
ràng buộc nào đó, đã từng làm cho chúng ta đau đớn.
Tuy nhiên muốn được giải thoát thì điều
kiện đầu tiên là phải khiêm nhường chấp nhận tội lỗi mình và xưng chúng
ta với linh mục giải tội, bằng tất cả tâm tình sám hối ăn năn.
Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay mời gọi
chúng ta hãy bằng lòng để cho Chúa Giêsu thực hiện nơi chúng ta những gì
mà ngày xưa Ngài đã làm cho chàng thanh niên bại liệt. Chúng ta hãy
trình diện với Ngài trong Bí tích Giải tội và lắng nghe Ngài nói với
chúng ta những gì Ngài đã nói với người bại liệt: Tội lỗi của con đã
được tha.
Tiếp đó, đoạn Tin Mừng còn mời gọi
chúng ta cảm nghiệm sự giải thoát mà chàng thanh niên bại liệt ấy từng
cảm nghiệm sau khi đã bị ràng buộc đớn đau quá lâu trong bệnh tật và tội
lỗi của chàng. Cũng như chàng trai phung phá, chúng ta hãy thành thực
thú nhận cùng Chúa: Lạy Chúa, con đã phạm tội nghịch với Cha, con không
xứng đáng làm con Cha nữa, xin Cha hãy nhận con như một tên đầy tớ của
Cha mà thôi.
Với tâm tình sám hối, thì tội lỗi có
nặng nề đến đâu chăng nữa, chúng ta cũng vẫn được Chúa tha thứ, bởi vì
tâm tình sám hối chính là một thứ tiền thiêng liêng để mua lấy ơn tha
thứ, chính là bước chân đầu tiên trên con đường trở về cùng Chúa, chính
là sự cộng tác nhỏ bé nhưng rất cần thiết của chúng ta vào ơn cứu độ,
như lời thánh Augustinô đã nói: Khi tạo dựng nên chúng ta, Chúa không
cần hỏi ý kiến chúng ta, nhưng để cứu chuộc chúng ta, Ngài cần chúng ta
ưng thuận và cộng tác với Ngài.
13. Lòng nhân từ của Chúa
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe cũng như qua
từng ngày trong suốt cả cuộc đời của Chúa Giêsu, chúng ta thấy nổi bật
lên một tấm lòng nhân từ và thương xót.
Thực vậy, trước khi làm phép lạ cho bánh hoá nhiều để nuôi đám đông trong hoang địa, Chúa Giêsu đã nói:
- Ta thương dân này.
- Ta thương dân này.
Chỉ một vài chữ ngắn ngủi này mà thôi
cũng đã đủ tóm lược tất cả cuộc sống và hành động của Chúa. Đúng thế,
nhìn vào cuộc sống của Chúa, chúng ta thấy Ngài luôn dành những tình cảm
ưu ái cho những người khổ đau và yếu đuối.
Trước hết là những trẻ nhỏ, đơn sơ và bé bỏng, bất lực trước những hiểm nguy và khó khăn của cuộc đời.
Phúc âm đã kể lại: Ngày kia Ngài đã chúc lành cho các em nhỏ và nói với các môn đệ:
- Ai tiếp đón một trong số những em nhỏ này vì danh Ta thì đó là tiếp đón chính Ta vậy.
Ngày khác các bà mẹ dẫn con cái của
mình đến với Chúa để xin Ngài chúc lành. Các môn đệ đã xua đuổi vì không
muốn Chúa bị quấy phá, nhưng Chúa đã phán bảo:
- Hãy để cho các trẻ nhỏ đến cùng Ta.
Ngài đã lấy trẻ nhỏ làm gương mẫu cho chúng ta:
- Nếu các con không trở nên giống trẻ nhỏ, các con không được vào Nước Trời.
Thứ đến, Ngài còn dành những tình cảm ưu ái đối với những người nghèo khổ.
Ai là người đã được diễm phúc thờ lạy
Chúa đầu tiên nơi máng cỏ Bêlem, nếu không phải là thánh Giuse, Mẹ Maria
và các mục đồng, tất cả đều là những người nghèo hèn và túng thiếu.
Sau này trong bài giảng trên núi Ngài cũng đã cầu chúc
- Phúc cho những người nghèo khổ, vì Nước Trời là của họ.
Trái lại, bọn Biệt phái và Pharisêu giàu có thì lại coi nghèo túng là một tai họa, là một lời nguyền rủa.
Chúa Giêsu còn đặc biệt chăm sóc đến
những người đau yếu bệnh tật. Thực vậy mà Ngài đã làm biết bao phép lạ
để xoa dịu những nỗi thống khổ mà họ phải chịu. Như vậy cũng đã đủ để
chứng tỏ rằng Ngài luôn lưu ý và dành cho họ những tình cảm đặc biệt.
Nhưng quan trọng hơn cả Ngài đã xót thương và tha thứ cho những kẻ tội
lỗi. Ngài thường lui tới với họ:
Chẳng hạn Ngài đã đến dự tiệc tại nhà
ông Giakêu. Ngài đã gọi họ làm môn đệ của mình như trường hợp của
Matthêu, của Phêrô. Ngài không kết án nhưng sẵn sàng tha thứ, chính vì
thế Ngài đã cứu người đàn bà ngoại tình mà chiếu theo luật Do thái là sẽ
bị ném đá cho chết.
Trong những lời giảng dạy Ngài đã sánh
ví mình như người mục tử lang thang tìm kiếm con chiên bị lạc mất, Ngài
đã sánh ví mình như người đàn bà tìm kiếm đồng bạc đánh rơi, hay như
người cha mòn mỏi trông chờ đứa con hoang đàng và Ngài đã kết luận:
- Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi kẻ tội lỗi…Không phải người khỏe mạnh mà là kẻ đau yếu mới cần đến thày thuốc…Một kẻ tội lỗi trở lại sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn chín nươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn.
- Ta không đến để kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi kẻ tội lỗi…Không phải người khỏe mạnh mà là kẻ đau yếu mới cần đến thày thuốc…Một kẻ tội lỗi trở lại sẽ làm cho cả thiên đàng vui mừng hơn chín nươi chín người công chính không cần sám hối ăn năn.
Còn chúng ta thì sao? Chúa Giêsu đã làm
gương cho chúng ta. Sống giữa một xã hội đầy hận thù và oán ghét, điều
cần thiết chúng ta cần phải làm ngay, đó là hãy noi theo, hãy bắt chước
Chúa, thực hiện những hành động bác ái, để nhờ đó, chúng ta sẽ trở nên
những chứng nhân cho tình thương của Chúa. Chúng ta hãy ghi nhớ lời
khuyên nhủ của Chúa.
Hơn thế nữa:
- Mỗi lần chúng ta thực hiện một hành vi bác ái cho một trong những kẻ hèn mọn nhất là chúng ta đã làm cho chính Chúa.
Phải chăng Chúa đã chẳng hứa ban hạnh
phúc Nước Trời trong ngày sau hết cho những người đã thực thi giới luật
yêu thương của Chúa đó sao?
14. Chữa lành
Trong những thời kỳ xa xưa, ở vùng quê
Ái Nhĩ Lan, khi có người ngã bệnh thì vị linh mục là người đến trước
tiên, kế đến có lẽ là bác sĩ. Ngày nay thì hầu như ngược lại. Nhưng đối
với người Kitô hữu, cả bác sĩ lẫn linh mục đều có vai trò trong việc săn
sóc người bệnh. Điều này không nhằm ám chỉ thân thể thuộc phạm vi của
bác sĩ, linh hồn thuộc phạm vi của linh mục. Nói như thế tức là cho rằng
cả bác sĩ lẫn linh mục đều nhìn thấy có một nửa thực tại.
Khi người bị liệt được đưa đến trước
mặt Người. Đức Giêsu thấy ngay người ấy cần được chữa lành về phần xác.
Nhưng Người đã thấy một việc khác. Người liệt cũng phải được chữa lành
về phần hồn. Và Người đã quyết định bắt đầu công việc này.
Người bắt đầu cứu chữa người liệt với
việc tha thứ tội lỗi cho người ấy. tại sao? Người không ám chỉ tội của
người bệnh là nguyên nhân gây bệnh. Người cũng không cho rằng tội của
người ấy lớn hơn những người khác có mặt trong phòng. Đơn giản Người chỉ
muốn khẳng định rằng người ấy cũng là một tội nhân như mọi người khác.
Khi khởi sự như thế, Đức Giêsu muốn nói rằng tội cũng là một căn bệnh,
một căn bệnh của linh hồn. Đức Giêsu không phân biệt chính xác giữa bệnh
phần xác và bệnh phần hồn, nhưng coi chúng như những biểu hiện khác
nhau của một căn bệnh thiêng liêng của nhân loại.
Ngày nay, nhiều nhà điều trị bệnh đồng ý
với phương pháp của Đức Giêsu. Nhiều căn bệnh của thân xác do tác động
hoặc xuất phát từ những căn bệnh của linh hồn. Ngày nay, người ta nói về
một “sức khỏe lành thánh”. Điều này có nghĩa là chúng ta phải xem xét
không chỉ khía cạnh thể chất của một con người, nhưng cũng phải xem xét
các khía cạnh tâm lý và tâm linh. Ý định của Đức Kitô là phải chăm sóc
đến con người toàn diện.
Khi khước từ những khía cạnh khác của
căn bệnh ngoài khía cạnh thuần về thể chất thì việc yêu cầu tư vấn cũng
hóa ra vô ích. Trong khoa điều trị, vấn đề luôn luôn là con người toàn
diện, chứ không bao giờ là một triệu chứng duy nhất. Cảm giác đau đớn
không chỉ trong thân xác, mà còn tâm trí, cảm xúc và tinh thần. Xem ra,
thể chất có thể chỉ là biểu hiện bên ngoài của một sự khó chịu bên
trong.
Như chúng ta đã thấy, Đức Giêsu bắt đầu
cứu chữa con người từ chỗ tâm linh “Này con, con đã được tha tội rồi”.
Điều này làm cho các kinh sư phẫn nộ. Nhưng Đức Giêsu dĩ nhiên sẽ chứng
tỏ cho họ thấy Người có quyền năng tha thứ tội lỗi qua việc chữa lành
những bệnh tật phần xác của con người.
Đức Giêsu đã đến để cứu con người toàn
diện, hồn và xác. Vì thế giờ đây Người nói với người bại liệt: “Hãy đứng
dậy vác lấy chõng của con mà đi”. Và người ấy đã ra khỏi căn phòng trên
đôi chân của mình. Người ấy không cần người ta khiêng đi nữa, linh hồn
của anh trở nên trong sáng và bình an.
Đây quả là một kỳ công mới mẻ và vĩ
đại. Ngay lập tức, người ta nhận ra điều đó. Họ sửng sốt và khen ngợi
Thiên Chúa: “Chúng tôi chưa thấy nhu vậy bao giờ”.
Ngay lúc này đây, chúng ta có thể chưa
cần sự chữa lành phần xác nhưng chắc chắn chúng ta cần sự chữa lành tâm
linh. Đây là cách áp dụng phép lạ này cho chúng ta. Tội lỗi có thể được
xem như một bệnh liệt thiêng liêng ảnh hưởng đến toàn bộ chúng ta. Nó
ảnh hưởng đến tâm linh chúng ta, làm suy yếu khả năng yêu thương của
chúng ta. Nó ảnh hưởng đến ý chí chúng ta: Chúng ta không thể cương
quyết từ bỏ điều xấu và cam kết vĩnh viễn với điều tốt. Nó ảnh hưởng đến
tinh thần chúng ta: Chúng ta không thể sống trong tự do, hy vọng và vui
mừng.
Chúng ta cần sự tha thứ và chữa lành
của Thiên Chúa. Chúng ta cần đem tội lỗi và bệnh att của chúng ta đến
cùng Người với lòng khiêm tốn và trông cậy. Rồi Người sẽ nói với chúng
ta: “Con đã được tha tội rồi. Giờ đây hãy đi và sống trong tự do và vui
mừng như một người con của Thiên Chúa”. Và khi nghe được những lời này,
chúng ta cũng sẽ khen ngợi Thiên Chúa và bước đi trong tự do của con cái
Thiên Chúa.
15. Sự tha thứ
Chúng ta sống trong một thời đại của
những điều thú nhận. Người ta trở lại những câu chuyện về mình, bóc trần
tâm hồn yếu đuối của mình, không chỉ kể lại một cách riêng tư với các
bác sĩ tâm lý, nhưng một cách công khai trong sách báo và truyền thanh,
truyền hình. Tuy nhiên, trong lúc có nhiều lời thú nhận, thì lại không
có sự xá tội – ít nhất là xá tội nhân danh Đức Kitô.
Đến với bác sĩ trị liệu không làm người
ta nhẹ bớt cảm thức phạm tội. Một đôi lúc, các bác sĩ trị liệu nói một
cách máy móc. “Được rồi, không hại gì đâu, nhiều người làm như thế và
bạn đã chịu một áp lực, và vân vân…” Người ta cảm thấy được các bác sĩ
trị liệu nâng đỡ nhưng không cảm thấy được tha thứ.
Sự tha thứ của con người thường đến quá
rẻ và quá dễ dàng. Vả lại, Thiên Chúa quan niệm tội lỗi của chúng ta
một cách nghiêm trọng nhưng Người yêu thương chúng ta đủ để tha thứ
những tội lỗi ấy. Người như muốn nói với chúng ta. “Dù cho con có làm gì
và nhiều đến đâu, thì Ta cũng tha cho con”.
Điều mà người ta cần là một cảm thức về
sự tha thứ triệt để. Sự tha thứ này vừa cho người ta nhận thức mình có
tội trong việc mình đã làm, vừa khẳng định người ta xứng đáng được quan
tâm. Con người không thể ban cho loại tha thứ đó vì chỉ Thiên Chúa mới
làm được.
Tha thứ là một điều kỳ diệu. Khi tha
thứ rồi người ta không còn bị công kích. Mọi sự đều bỏ qua. Người được
tha thứ không còn bị cảm thức tội lỗi làm tê liệt. Họ bước đi tự do,
thân mật với Thiên Chúa và với những người mà họ đã xúc phạm.
Trung tâm sứ vụ của Đức Giêsu là sự tha
thứ. Mà Người đã trao quyền bính ấy cho các tông đồ khi Người nói với
họ “Anh em tha tội nào thì tội ấy được tha; anh em cầm giữ tội nào thì
tội ấy sẽ bị cầm giữ”. Quyền tha tội nhân danh Người là một ơn rất lớn
mà Đức Giêsu để lại cho Giáo hội Người, và chủ yếu được thực thi qua Bí
tích Giải tội.
Nhiều người trong chúng ta đến với phép
Giải tội với mọi danh sách các tội đã được chuẩn bị trước. Những tội
giống nhau xuất hiện trên danh sách nhiều lần thường có cả những vấn đề
tầm thường mà chúng ta thấy không cần phải ăn năn, hối hận. Trong lúc
xưng tội chúng ta đọc lướt qua danh sách ấy rồi chăm chú lắng nghe những
lời linh mục nói, để rồi thấy rằng cách sống của chúng ta sau đó không
có gì khác trước. Người ta không làm một nỗ lực nào để đi sâu vào căn
nguyên của mối quan hệ với Thiên Chúa và người khác.
Chúng ta phải phân biệt tội lỗi như một
biến cố, một hành động và tội lỗi như một điều kiện. Loại thứ hai quan
trọng hơn. Bạn có thể làm một điều gì đó sai lầm, nhưng điều đó không
làm cho bạn thành một người làm điều sai thường xuyên. Có một sự khác
nhau lớn giữa người sai phạm một đôi lần, và người sai phạm như một cách
để sống. Một người có thể ăn cắp một lần do bị cám dỗ hoặc kinh tế khó
khăn. Hoặc một người có thể ăn cắp đều đặn, do đó việc trộm cắp trở
thành một cách sống.
Tình trạng tội lỗi không giống với tội
lỗi. Cái đầu là căn bệnh, cái sau là triệu chứng. Chúng ta là những
người có tội, sa ngã – đó là một thực tế. Vì thế chúng ta ra khỏi đời
này với một danh sách các tội. Bí tích Giải tội đòi hỏi chúng ta xét
mình vì tội lỗi của chúng ta chỉ là một biểu hiện bên ngoài của sự bất
ổn bên trong.
Tội lỗi không phải là một vật mà chúng
ta có thể vứt một lần rồi xong như một cái áo cũ. Đúng hơn, nó là một
điều kiện trong đời sống chúng ta. Chúng ta là những người có tội và
luôn luôn cần có sự cứu chuộc. Điều quan trọng không phải là những khiếm
khuyết của chúng ta mà là cuộc chiến đấu của chúng ta cho sự thiện hảo.
Mục tiêu của một đời sống tốt lành không phải là thắng trận mà là tiến
hành cuộc chiến đấu không ngừng.
Bí tích Giải tội không phải là một dịch
vụ giặt tẩy vô ngã. Nó là một cuộc gặp gỡ với Đức Kitô, Đấng lôi kéo
chúng ta tiến đến tự do của con cái Thiên Chúa.
Người bại liệt đứng dậy, vác lấy chõng
của mình để về nhà. Khi chúng ta được tha thứ, chúng ta được giải thoát
quá khứ của mình, và có thể lại tiến lên trên vai vác gánh nặng và những
trách nhiệm của mình.
16. Tại sao?
Sự tha thứ của Thiên Chúa có thể tìm
thấy qua tác vụ của bất cứ linh mục nào, chính linh mục cũng mang trong
mình vết nhơ tội lỗi và cần được tha thứ. Nhưng khi chia sẻ quyền bính
của Đức Kitô mỗi linh mục trở thành người chữa trị thương tích. Tuy
nhiên không phải linh mục tha thứ, nhưng Đức Kitô hành động qua linh
mục.
Nhiều người đặt vấn đề: Tại sao xưng
tội với một linh mục mà không xưng trực tiếp với Thiên Chúa? Theo quan
điểm của Thiên Chúa, câu trả lời rất đơn giản: Vô lý. Chúng ta thường
tìm lý lẽ cho mình. Không còn là sự tha thứ đơn giản nữa.
Việc xưng tội tốt cho linh hồn. Điều
xấu người ta làm mà không thể nói ra sẽ là một con sâu đục khoét tâm hồn
người đó. Chúng ta có nhu cầu nói về điều quấy rầy chúng ta. Khi xưng
tội, chúng ta có thể nói hết mọi việc về mình và biết rằng chúng sẽ
không bao giờ bị tiết lộ. Vì thế nó hoàn thành một nhu cầu sâu xa của
con người là muốn cởi mở tâm hồn mình. Chúng ta cũng có nhu cầu hướng
dẫn. Việc xưng tội đáp ứng nhu cầu này.
Đi xa hơn nữa, chúng ta cần ngoại giới
hóa – bằng chữ, dấu chỉ, động thái – điều ở trong tâm trí chúng ta.
Chúng ta cần một biểu lộ rõ ràng sự tha thứ của Thiên Chúa. Chúng ta cần
nhìn, nghe và cảm nhận sự tha thứ chứ không chỉ nghĩ về nó. Chúng ta
cần có những người khác giúp chúng ta ngoại giới hóa điều ở bên trong và
mở lòng mình ra trước mặt Thiên Chúa. Những người khác giúp chúng ta
cảm nghiệm và công bố lòng thương xót của Thiên Chúa trong đời sống
chúng ta.
Chúng ta không trực tiếp đến với Thiên
Chúa khi có những bệnh tật của thân xác. Vậy tại sao chúng ta đến trực
tiếp với Người khi có bệnh linh hồn? Không đi xưng tội, lừa dối chính
mình, tránh né, hoãn lại ngày đền tội xem ra dễ dàng hơn. Ngày đó với
chúng ta là quá muộn. Xưng tội có nghĩa là đối diện với thực tại về
chính mình.
Nhưng chỉ đi xưng tội không chưa đủ.
Người trưởng thành có thể xưng tội như lúc ở tuổi mười hoặc mười hai.
Người ta thường khước từ nhìn xa hơn những lỗi phạm của cá nhân. Dù sao
sự phạm lỗi cũng tự nó đã là một sự đoạn tuyệt hay một triệu chứng.
Chúng ta phải quan niệm toàn thể con người mình. Chúng ta phải xem xét
công việc, sự đau khổ, những cám dỗ, cuộc chiến đấu cho điều thiện hảo
và những thiếu xót trong cuộc chiến đấu ấy.
Việc xưng tội bao hàm một sự xét mình
đau đớn. Chúng ta phải đi đến cùng khía cạnh đen tối của chính mình.
Chúng ta phải nhớ rằng Đức Kitô không muốn lên án chúng ta, nhưng muốn
cứu chúng ta. Chúng ta được mời gọi tự phán xét mình, nhìn lại chính
mình. Thừa nhận sự nghèo nàn, yếu đuối, tội lỗi của mình không phải là
việc dễ dàng. Nhưng chúng ta muốn tìm thấy sự sạch sẽ, nguyên vẹn và
bình an.
Một số người giữ mãi tội lỗi của họ
trong quá khứ như thể họ không thật sự tin rằng Thiên Chúa đã tha thứ
cho chính mình. Những người như thế có thể học tập thánh Phêrô. Tôi chắc
chắn rằng thánh Phêrô không bao giờ quên sự kiện ông chối Đức Giêsu.
Nhưng tội ấy không ám ảnh ông như kiểu một số người bị tội lỗi của họ ám
ảnh.
Phêrô đã học được nhiều điều từ sự vấp
ngã của ông. Ông khám phá sự thật rất đau đớn về chính mình. Ông không
mạnh mẽ, can đảm và quảng đại như ông đã nghĩ về mình. Nhưng ông cũng đã
học một sự thật tuyệt vời về Đức Giêsu. Ông học được rằng cho dù ông
chối Người, Đức Giêsu vẫn yêu thương ông. Chính sự yêu thương này có thể
làm một giờ đau khổ và hổ thẹn của ông thành một giờ của ân sủng và cứu
chuộc.
Chúng ta cũng có thể học từ tội lỗi của
chúng ta. Chúng ta học biết sự yếu đuối của chúng ta. và chúng ta học
biết sự thiện hảo của Thiên Chúa, bởi vì chúng ta cảm nghiệm được tình
yêu và lòng thương xót của Người trong tội lỗi của chúng ta. Khi chúng
ta học từ sự vấp ngã, và khi nhớ lại điều đó thì điều thích đáng nhất là
biểu lộ lòng biết ơn Thiên Chúa thay vì dằn vặt chính mình.
Đức cha Camara (Helder Camara) có một
người anh hơn ngài năm tuổi. Hồi mới thụ phong linh mục, ngài sống chung
với anh và một bà chị. Lúc đó ông anh đã hoàn toàn mất đức tin, không
còn tin điều gì siêu nhiên nữa. Mỗi lần cha Camara đi giảng hay chuẩn bị
dâng lễ ông anh lại hỏi:
- Hôm nay chú định giảng gì đó?
- Hôm nay chú định giảng gì đó?
Cha Camara khiêm tốn cắt nghĩa cặn kẽ
cho ông anh những điều cha sắp giảng. Tình trạng kéo dài hơn tám năm như
thế. Sau đó ông anh ngã bệnh nặng. Ông kêu cha Camara tới bên giường và
nói: “Tôi biết chú thông minh, học rộng hiểu nhiều. Mấy năm rồi tôi
thấy chú trung thành tuân giữ và sống theo lời chú giảng dạy, nghĩa là
chú có lòng tin vững mạnh. Vậy tôi hỏi chú xem tôi có thể nhờ lòng tin
của chú mà được cứu rỗi không?
Cha Camara trả lời: Em thấy anh rất khiêm tốn và cũng có lòng tin. Chắc Chúa thương anh và anh được cứu rỗi.
Ông anh xúc động, xưng tội rước lễ và chết bình an trong tình thương của Chúa.
Câu chuyện làm ta nghĩ tới trường hợp
người bất toại trong Tin Mừng hôm nay. Cũng vậy, Chúa thấy những người
khiêng bệnh nhân có lòng tin và Chúa đã thương chữa lành người bệnh.
Lòng tin là một quà tặng Chúa trao ban, nhưng nhiều khi lòng tin được
tiếp nhận và nuôi dưỡng do các chứng tá chung quanh, nhất là do những
người thân như cha mẹ, vợ chồng, con cái. Chuyện người bất toại trong
Tin Mừng hôm nay cũng thế. Những người khiêng bệnh nhân thấy không cách
nào tới gần Chúa, vì người nghe giảng quá đông, họ đành phải đưa bệnh
nhân lên sân thượng, rỡ mái nhà, thòng giây thả anh xuống trước mặt Chúa
Giêsu. Hành động của họ đã gây bao phiền hà cho gia chủ, có thể gây
chống đối trong đám đông, những người chưa tin Chúa, họ cho đó là vớ vẩn
mất công vô ích. Tuy nhiên, chắc những người khiêng bệnh nhân đã tin
tuyệt đối vào quyền năng và tình thương của Chúa, họ mới có thể làm như
vậy. Lòng tin của họ làm Chúa hài lòng. Người nói với anh bất toại: “Hỡi
con, tội của con đã được tha”. Trong khi bệnh nhân chỉ cầu mong được
lành bệnh thì Chúa lại ban cho anh một ân huệ lớn hơn: đó là ơn tha tội.
Vì tội là nguyên nhân của mọi bệnh tật, nếu ta quan niệm bệnh tật như
là dịp đền tội. Lời tuyên bố tha tội cũng là một thử thách lòng tin. Tội
là thứ vô tình, không thấy rõ như thấy bệnh. Và một khi người bất toại
và những người khiêng chấp nhận lời tha tội của Chúa, là họ chính thức
nhận Ngài là Chúa Cứu Thế, là Thiên Chúa thật. Còn đối với Chúa, đây là
việc quan trọng, là cơ hội Chúa mạc khải về thân thế và sứ mệnh cứu
chuộc của Người: Chúa là “Con Người” mà ngôn sứ Daniel đã loan báo.
Vậy sau khi tuyên bố tha tội, Chúa đã
cho người bất toại được lành. Việc chữa lành bệnh nhân như bằng chứng
lời tha tội thực sự có công hiệu, một hiệu quả mọi người đều thấy rõ,
khiến họ thấy được hiệu quả vô hình của lời tha tội.
Lạy Chúa, xin tăng cường lòng tin cho
chúng con và cho những người thân thương của chúng con. Xin ban ánh sáng
lòng tin cho những người chúng con có bổn phận cầu nguyện cho. Chúng
con xin hợp lời ngợi khen tạ ơn Chúa.
18. Bí tích Giải tội
Tissot là một bác sĩ nổi tiếng ở Thụy
sĩ. Mặc dù là người Tin lành, nhưng ông vẫn kính trọng và công nhận sức
chữa bệnh của Bí tích Giải tội, được thực hành trong Giáo Hội Công giáo.
Ngày kia, ông được mời chữa bệnh cho
một vị phu nhân trẻ ngoại quốc. Vì bà ta là một tín hữu Công giáo, nên
ông đã mời một linh mục đến ngồi tòa và ban Bí tích Giải tội cho bệnh
nhân. Tức thì, bà ta cảm thấy thay đổi và dễ chịu. Lúc trước bà ta hốt
hoảng vì sợ chết. Còn bây giờ bà ta cảm thấy bình an và trầm tĩnh.
Sáng hôm sau, bác sĩ thấy cơn sốt giảm
dần và bệnh nhân được bình phục. Vì thế ông thường hay nhắc lại sự việc
này và bao giờ cũng thêm một lời cảm phục chân thành:
- Nhờ sức mạnh của tòa giải tội của người Công giáo.
- Nhờ sức mạnh của tòa giải tội của người Công giáo.
Dĩ nhiên, là người Công giáo, chúng ta
đã biết rằng Bí tích Giải tội tha thứ tội lỗi, chữa lành tâm hồn và trả
lại sức sống của Thiên Chúa cho những ai trót lầm lỡ phạm tội nặng.
Chúng ta tin rằng Bí tích Giải tội hữu ích cho linh hồn, nhưng chúng ta
chưa nhận thấy bí tích này còn hữu ích cho cả thể xác nữa.
Thực vậy, chúng ta vừa nghe Chúa Giêsu
chữa một người bại liệt, được bốn người thả xuống từ một khoảng trống
trên mái nhà để được gần Chúa Giêsu, Đấng chữa lành tâm hồn bệnh nhân:
- Này con, tội con đã được tha.
- Này con, tội con đã được tha.
Vì những kẻ đứng bên cạnh chất vấn Ngài về quyền tha tội, nên Ngài nói với bệnh nhân:
- Con hãy đứng lên, vác giường mà về.
- Con hãy đứng lên, vác giường mà về.
Và người bệnh đã làm được như thế. Dĩ
nhiên, tôi không muốn nói rằng mỗi người Công giáo khi mắc bệnh hay đau
yếu về phần xác, đều được chữa lành nơi tòa giải tội. Tôi chỉ muốn nói
rằng tòa giải tội có thể giúp cho thể xác cũng như cho tâm hồn. Chắc
chắn tòa giải tội chữa lành và phòng ngừa những chứng bệnh tâm thần.
Đó là điều các bác sĩ đã công nhận, bởi
vì Bí tích Giải tội tẩy xóa lỗi lầm là nguyên nhân chính gây nên rối
loạn và suy nhược tâm thần. Đi xa hơn một chút chúng ta thấy: Tâm hồn
bình an chắc chắn cũng sẽ ảnh hưởng tốt tới thân xác.
Thế nhưng có người sẽ bảo:
- Vậy chỉ cần thổ lộ với bác sĩ tâm thần cũng sẽ có được hậu quả tương tự.
Đúng thế, nếu hiểu theo một góc cạnh
nào đó, nhưng thổ lộ với bác sĩ tâm thần thì làm gì có được lời xá giải,
thì làm gì có được lòng thống hối ăn năn, thì làm gì có được sự tha thứ
của Chúa. Chỉ Bí tích Giải tội mới đem lại cho chúng ta những sự ấy mà
thôi.
Hơn thế nữa, những tội như say sưa,
giận hờn, oán thù, đánh lộn… đã gây nên những tổn hại cho thể xác, nhưng
khi chúng ta sám hối và xưng thú, thì đó cũng là một cách thức chúng ta
đem lại sự an bình và khoẻ mạnh cho thân xác chúng ta vậy.
Cả ba Tin Mừng nhất lãm đều tường thuật
phép lạ Chúa Giêsu chữa người bại liệt ở Caphácnaum, nhưng Đoạn Tin
Mừng Maccô mang một sắc thái tự nhiên, sống động, khiến sự việc xảy ra
như trước mắt chúng ta. Chúng ta có thể diễn lại trình thuật này như
sau:
Chúa Giêsu vừa về tới Caphácnaum sau
mấy tuần lễ vắng mặt, tin Ngài về lan ra và rất đông người tìm đến gặp
Ngài, họ theo Ngài vào nhà Phêrô, nơi Ngài tạm trú. Căn nhà chật ních
người, những kẻ đến sau tụ tập trước cửa rất đông. Trong nhà, Chúa Giêsu
rao giảng như thường lệ, phần đông người ta nghe Ngài cách thiện cảm và
phấn khởi. Tuy nhiên, vì hoạt động và ảnh hưởng của Chúa chấn động cả
miền Galilê, không khỏi làm cho nhóm Pharisêu và kinh sư ở Giêrusalem để
ý và lo ngại, vì Chúa không xuất thân ở trường của họ, cũng không đứng
trong phe phái của họ, nên trong nhà của Simon hôm nay, trên hàng đầu,
có những thầy thông luật từ Giêrusalem đến để tìm cơ hội bắt bẻ Ngài.
Trong khi Chúa đang giảng, có bốn người
khiêng tới một chiếc chõng trên có người bại liệt nằm bất động, nhưng
đông người quá, không cách nào vào được, nên họ đưa bệnh nhân lên mái
nhà, lật ngói làm thành một khoảng trống, rồi dòng dây thả chiếc chõng
cùng với người bại liệt xuống ngay trước mặt Chúa, họ chỉ đặt đó thôi,
không nói năng nài xin gì hết, nhưng ai cũng hiểu họ muốn gì. Hiểu ý họ,
Chúa Giêsu nắm lấy cơ hội, họ muốn một Chúa cho hai, đồng thời Ngài tỏ
ra cho nhóm Pharisêu và kinh sư biết Ngài là ai, Ngài có quyền phép hơn
họ tưởng. Thay vì chữa bệnh thể xác liền, Chúa chữa bệnh thiêng liêng
cho anh ta trước, Ngài đi xa hơn sự mong chờ của mọi người, bởi vì nếu
quan niệm bệnh tật là hậu quả hay hình phạt do tội lỗi thì không gì hợp
lý và dễ dàng bằng cất nguyên nhân tự nhiên đi thì hậu quả cũng biến
mất, làm ngược lại là một điều khó khăn và không hợp lý.
Vì là một mặc khải bất ngờ, các đối thủ
chưa kịp nói lên những ý nghĩ trong trí của họ, phần Chúa Giêsu, để
minh chứng Ngài đồng bản tính với Thiên Chúa, Ngài đọc rõ những ý nghĩ
còn trong tâm trí mỗi người và hỏi nhóm Pharisêu mấy câu thật hóc búa.
Nghe Chúa nói: “Này con, tội con được tha rồi”, Pharisêu và kinh sư đặt
ra trong trí họ một lưỡng đạo luận: hoặc là ông này phạm thượng, vì chỉ
là người mà dám tha tội cho kẻ khác, hoặc là ông có quyền như Thiên
Chúa. Nếu chấp nhận giả thuyết một thì làm sao Thiên Chúa phò ông để làm
phép lạ? Nếu chấp nhận giả thuyết hai thì tín điều “chỉ có một Giavê
độc nhất mà thôi”, làm sao có thể dung hòa?
Chúa Giêsu lại thách họ: “Điều nào dễ
hơn?” Sự thực cả hai điều đều quá sức con người, nhưng Chúa Giêsu đã làm
được cả hai, Ngài đã làm một công hai việc: vừa cho thấy thái độ mâu
thuẫn của họ vừa chứng minh Ngài là Thiên Chúa, Ngài tuyên bố tha tội
cho người bại liệt, rồi lại chữa anh ta khỏi bệnh, vậy Ngài là Thiên
Chúa.
Nhân bài Tin Mừng này, chúng ta tìm
hiểu ý nghĩa các phép lạ Chúa Giêsu làm và từ đó chúng ta tìm ra một
thái độ trước những sự việc khác thường được nghe kể lại hoặc chứng
kiến. Tin Mừng ghi lại nhiều phép lạ Chúa Giêsu đã làm, tất cả chỉ vì
lòng thương người ta, nhưng tình thương của Chúa không phải chỉ cứu giúp
về đời sống vật chất của con người mà còn muốn cứu giúp con người toàn
diện, vì thế, những phép lạ của Chúa Giêsu còn có ý nghĩa sâu xa hơn, đó
là dấu chỉ của ơn cứu độ mà Ngài đem đến cho nhân loại, chẳng hạn, khi
chữa người bại liệt, Ngài cho thấy Ngài có quyền tháo gỡ con người khỏi
xiềng xích ràng buộc của tội lỗi. Khi làm cho người mù sáng mắt, Ngài
cho thấy Ngài là ánh sáng thật cho người ta nhìn ra “Con Người cứu độ”.
Khi hóa bánh ra nhiều cho đám đông ăn no, Ngài cho thấy Ngài là bánh
hằng sống đem lại sự sống muôn đời cho loài người…
Chúa Giêsu làm phép lạ, nhưng các sách
Tin Mừng cũng cho thấy Ngài có một thái độ dè dặt. Trước hết, nhiều khi
Ngài từ chối không làm phép lạ mà ma quỷ hay một số người yêu cầu với ý
hướng khiêu khích hoặc tò mò, thử thách chứ không vì lòng tin. Chúa từ
chối, vì Ngài không làm phép lạ để biểu dương lực lượng, phô trương,
hoặc vì những người đó không có thái độ sẵn sàng đón nhận. Cũng chính vì
thế ngay cả khi bị treo trên thập giá, người ta thách thức Ngài làm
phép lạ xuống khỏi thập giá cho họ tin, Ngài cũng không làm.
Mặt khác, nhiều khi làm phép lạ chữa
một người nào, Chúa cấm họ không được nói ra cho người khác biết, Ngài
đòi hỏi những người đó phải kín miệng như vậy là vì người ta có thể hiểu
lầm ý nghĩa của những phép lạ, cho rằng Ngài đến để cứu người ta về mặt
chính trị hoặc kinh tế, trong khi sứ mạng của Ngài không phải ở chỗ đó,
Ngài cũng không muốn người ta ỷ vào phép lạ để trốn tránh trách nhiệm
của mình.
Hơn nữa, Tin Mừng Gioan còn nói: nhiều
người tin vào Chúa Giêsu vì thấy những phép lạ Ngài làm, nhưng Ngài
không tín nhiệm họ, bởi vì lòng tin chỉ dựa vào phép lạ là một lòng tin
còn non nớt, yếu kém và bồng bột, dễ thay đổi, lòng tin vững chắc không
lệ thuộc vào những gì tai nghe mắt thấy, nhưng chỉ dựa vào lời Chúa, vì
thế, sau khi sống lại, Chúa Giêsu nói với ông Tôma: “Phúc cho những ai
không thấy mà tin”.
Ngày nay thỉnh thoảng chúng ta nghe có
phép lạ xảy ra ở chỗ này chỗ kia, trước những sự kiện lạ đó, chúng ta
phải biết khảo sát, không thiên kiến, chủ quan, phải hoàn toàn vô tư để
nhận ra đâu là tác động thần linh, đâu là sự kiện khoa học hoặc đâu là
dàn cảnh. Giáo Hội dạy chúng ta hãy luôn dè dặt trước những cái gọi là
“phép lạ” để không bị phê phán là nhẹ dạ, dễ tin, cuồng tín hoặc mê tín.
John Donne đã nói: “Không ai là một hòn
đảo”. Tất cả chúng ta cần giúp đỡ lẫn nhau. Chúng ta cần tương trợ nhau
để sống, không những về thể lý, vật chất, mà còn về tình cảm và tinh
thần nữa.
Mục sư Martin Luther King khi tranh đấu
cho nhân quyền và sự bình đẳng của mọi người, nhất là những người da
mầu trên đất Hoa Kỳ, ngài đã kêu gọi chính những người da mầu hãy sống
chung hợp tác chặt chẽ lại với nhau “Chúng ta đã học vất vả để bay trên
không như loài chim và bơi lội dưới biển như loài cá. Chỉ có một điều
đơn giản chúng ta đã không học đó là sống với nhau”.
Trong câu chuyện của bài Phúc âm hôm
nay, bốn anh bạn khiêng một bệnh nhân bị liệt đến với Chúa Giêsu. Họ đã
có sáng kiến rất độc đáo bằng cách dỡ mái nhà, thả anh liệt xuống ngay
căn phòng nơi Chúa Giêsu đang giảng dạy. Đây là một bài học sáng giá và
cao quý của tinh thần bác ái và lòng tương trợ lẫn nhau.
Theo nhà chú giải thánh kinh William
Barclay diễn tả, mái nhà của người Do Thái sống ở vùng Palestine được
xây cất như sau. Mái nhà gồm những cây xà ngang bằng phẳng đặt từ bờ
tường này sang tường bên kia. Mỗi xà ngang cách nhau khoảng một mét.
Khoảng giữa hai cây xà được đổ đất sét trộn lẫn với những nhánh cây. Ở
lớp trên cùng lại được tráng thêm một lớp đất sét nữa. Do đó, mái nhà
rất bằng phẳng. Thường có cỏ mọc xanh tươi, và người ta dùng chỗ này để
nghỉ ngơi, rất yên tĩnh. Bình thường nó có một cầu thang ở phía ngoài để
lên xuống.
Cách dễ nhất cho bốn anh bạn thả người
bất toại xuống là họ đục khoét đất sét ở vào giữa hai cây xà. Làm như
vậy tránh được sự hư hại cho chủ nhà, sau này dễ sửa chữa lại. Nhìn thấy
thiện chí và đức tin của bốn anh bạn này: “Thấy lòng tin của họ”, Chúa
Giêsu đã chữa lành người liệt, cả phần hồn lẫn thể xác. Đức tin làm cho
khỏi bệnh ở đây chính là đức tin và sáng kiến của bốn anh bạn.
Chúa Giêsu chữa người liệt bằng cách
nói: “Hỡi con, tội lỗi của con đã được tha”. Theo quan niệm của người Do
Thái, đau khổ, bệnh tật là hậu quả của tội lỗi. Đây là hình phạt của
Thiên Chúa giáng xuống trên tội nhân. Vì thế, tha tội là điều kiện để
được chữa lành. Theo Paul Tournler cho biết, ngày nay nhiều bộ lạc của
những sắc tộc thiểu số vẫn còn suy nghĩ như vậy. Ông nói rằng theo báo
cáo của những vị truyền giáo, đối với nhiều dân thiểu số, bệnh tật là sự
ô uế. Người bị bệnh sẽ bị người khác xa tránh để khỏi bị lây nhiễm. Có
nhiều người Kitô hữu, khi bị bệnh, họ không dám lên rước lễ, vì họ tự
coi mình đã bị khinh bỉ bởi Thiên Chúa, không dám hiệp thông với cộng
đoàn!
Sách Giáo lý Công giáo số 1108 diễn tả
sự tương trợ và hiệp thông của các Kitô hữu như sau: “Trong mỗi hành
động phụng vụ Chúa Thánh Thần được sai đến để mang chúng ta vào sự hiệp
thông với Chúa Kitô và để tác tạo nên thân thể của Ngài. Chúa Thánh Thần
như nhựa sống của cây nho của Chúa Cha, sinh hoa kết quả nơi các ngành
nho… Giáo Hội là bí tích vĩ đại của mối hiệp thông thần linh quy tụ các
con cái của Thiên Chúa đang bị tản mác. Hoa trái của Chúa Thánh Thần
trong phụng vụ là sự hiệp thông với Chúa Ba Ngôi, gắn liền với sự hiệp
thông huynh đệ giữa chúng ta với nhau”.
Quả vậy, nhờ những lời cầu nguyện, cùng
những giọt nước mắt hy sinh đau khổ của người mẹ, bà thánh Monica mà
thánh Augustinô đã được ơn trở lại. Bà thánh Monica đã cầu nguyện đêm
ngày liên lỉ, cộng với các việc làm thánh thiện suốt cuộc đời của bà cho
đứa con trai đang đi sai lạc trong đường tội lỗi. Sau cùng Augustinô đã
trở lại và chịu phép rửa tội trước khi bà chết chỉ một năm. Tất cả
những âu lo và đau khổ kéo dài suốt đời của một người mẹ đầy tình thương
mến dành cho con đã trở nên nguồn vui lớn lao không sao tả xiết. Sau
khi chứng kiến con mình chịu phép rửa tội tại Ý, trên đường trở về quê
nhà ở Numidia Phi Châu, bà Monica tâm sự với con:
“Con yêu dấu, mẹ không còn điều gì phải
lo lắng trên cuộc đời này nữa. Mẹ không biết sẽ phải làm gì và tại sao
mẹ có mặt trên cuộc đời này. Nhưng chỉ có một lý do mẹ xin được trì
hoãn, được sống thêm một thời gian nữa trên trần gian này là để được
nhìn thấy con trở thành một người Kitô hữu Công giáo trước khi mẹ chết.
Đây là ơn lành vô cùng lớn lao mà Thiên Chúa đã ban cho mẹ. Được chứng
kiến con từ bỏ thú vui trần thế mà trở nên tôi tớ của Ngài. Bây giờ mẹ
còn muốn ở đời này để làm gì nữa bây giờ?”
Nếu không có những lời cầu nguyện và hy
sinh của bà Monica, liệu thánh Augustinô có được ơn trở lại và làm
thánh không? Nếu không có sự giúp đỡ của bốn anh bạn và có lẽ của nhiều
người khác nữa, liệu người bị bại liệt có cơ hội gặp Chúa Giêsu, được
tha tội và chữa lành không? Thế nhưng, trong cuộc sống chúng ta vẫn
thường ngoảnh mặt làm ngơ trước những nhu cầu cần giúp đỡ của những
người khác bằng từ ngữ: “Đó không phải là việc của tôi!”
Người lính thủy quân lục chiến Mỹ đã
chiến đấu ở Việt Nam đang trên đường trở về nhà. Khi đáp xuống phi
trường ở San Francisco, anh gọi điện thoại về nhà báo cho cha mẹ hay:
“Ba mẹ ơi! Con đang trên đường về nhà! Nhưng con muốn ba mẹ giúp con một
điều. Con có một người bạn cùng đi với con”. “Được rồi! Ba mẹ cũng muốn
được gặp bạn con”. Người cha trả lời. “Nhưng con có một điều cần được
hỏi ý kiến ba mẹ trước đã. Anh bạn của con bị thương rất nặng trong
chiến trận. Anh ta đạp phải mìn, mất một cánh tay và một chân. Anh ta
không có chỗ nào để ở cả. Không gia đình, không bạn bè! Và con muốn anh
ta về ở chung với gia đình chúng ta được không ba mẹ “? Người cha tỏ ý
bất bình: “Nè con, rất tiếc là ba mẹ phải nghe đến điều đó! Có lẽ chúng
ta sẽ giúp anh ta bằng cách tìm một chỗ nào đó để anh ở!” Người con cố
gắng nài nỉ: “Không được! Ba mẹ à! Con muốn anh ta sống chung với gia
đình chúng ta cơ!” “Con ơi!” người cha khuyên con, “Con không hiểu điều
con đang yêu cầu. Người tàn phế tật nguyền là một gánh nặng khủng khiếp
cho gia đình mình. Chúng ta có đời sống riêng để sống. Con không nên đặt
một gánh nặng như thế lên gia đình. Ba nghĩ “đó không phải là việc của
con!” Anh ta phải tự lo cho mình! Con cứ về nhà và quên anh ta đi!”
Cuộc đàm thoại đến đây thì người con
gác ống điện thoại lên, không nói nữa. Cha mẹ anh cũng chẳng nghe gì
thêm nữa về anh. Tuy nhiên vài ngày sau đó, ông nhận được một cú phôn
gọi từ trạm cảnh sát ở San Francisco. Con của ông bà đã chết sau khi rơi
xuống từ một nhà lầu rất cao. Cảnh sát tin rằng anh ta đã tự tử.
Hai ông bà buồn rầu bay qua San
Francisco. Họ được dẫn ngay đến nhà xác của bệnh viện thành phố để nhận
diện con mình. Họ nhìn xác con và vô cùng kinh ngạc khi khám phá ra rằng
chính họ không hề biết rằng người con chỉ còn có một cánh tay và một
cái chân. Người bạn thương binh tàn tật đó chính là con trai của họ!
Phúc âm hôm nay giúp chúng ta ý thức về
sự cần thiết của tinh thần tương trợ lẫn nhau trong đời sống Kitô hữu.
Đời sống tinh thần và đạo đức của chúng ta cũng có lúc sẽ bị bệnh tật,
và ở vài khía cạnh nào đó cũng sẽ bị liệt. Và vấn đề là ai sẽ có đủ lòng
từ tâm, quảng đại và can đảm như bốn người bạn của anh bị bại liệt. Ai
có sáng kiến leo lên mái nhà của căn phòng bệnh tật, u tối của chúng ta
mà khoét trần nhà đưa ta đến với Đức Giêsu Kitô. Nếu ai cũng nói: “Đó
không phải là việc của tôi!” thì chuyện gì sẽ xảy ra? Câu chuyện bi đát
của anh lính thương binh Mỹ giúp chúng ta nhìn thấy hậu quả tai hại của
cá nhân chủ nghĩa và sự ích kỷ.
Qua bài Tin Mừng hôm nay chúng ta có
thể ghi nhận được ba bài học: Một nơi Chúa Giêsu, một nơi người bại liệt
và một nơi các kinh sư.
Bài học thứ nhất: Ai cũng biết bại liệt
là bất lực, vừa là nỗi khổ cho chính mình vừa là gánh nặng cho thân
nhân, họ hàng. Chắc chắn Chúa Giêsu thấy nơi người bại liệt nỗi đau khổ
về thể xác. Nhưng tại sao câu đầu tiên Chúa nói với anh ta lại là lời
tha tội? Anh ta có tội gì chăng nên mới bị bại liệt như vậy? Người Do
thái có quan niệm như thế: Bệnh tật là hậu quả của tội lỗi. Ai mắc bệnh
tật đều là người có tội. Bệnh tật càng nặng tức là tội lỗi càng nhiều và
càng nặng, nên mới bị phạt ra bên ngoài bằng bệnh tật như thế.
Ở đây, Chúa Giêsu không đồng ý hay đồng
tình với quan niệm ấy, bởi vì chủ trương của Chúa là: Tội lỗi là tội
lỗi, bệnh tật là bệnh tật. Đây là hai vấn đề riêng biệt, không có liên
quan với nhau. Có thể có người vừa có bệnh vừa có tội. Nhưng cũng có
người có bệnh mà không có tội, hoặc ngược lại, có tội mà không có bệnh
tật gì. Cho nên, khi Chúa nói: “Này con, tội con được tha rồi” là Chúa
muốn minh chứng Ngài là Thiên Chúa, Ngài có quyền tha tội. Vì đối với
người Do thái, chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Nhưng tha tội mà
không được khỏi bệnh thì người Do thái không tin. Trái lại, khỏi bệnh
không thôi thì bình thường quá. Vì vậy, Chúa đã thực hiện cả hai: Vừa
tha tội vừa chữa bệnh. Đây là một hành động của Thiên Chúa toàn năng,
đầy thương xót cả xác lẫn hồn.
Bài học thứ hai, người bại liệt được
Chúa Giêsu chữa lành, vì anh có một lòng tin mạnh mẽ vào quyền phép và
tình thương của Chúa, đúng như người ta vẫn thường nói: Tin là tín
nhiệm, tin thì không sợ. Người nào còn sợ là người chưa đủ tin. Người
bại liệt đã có một lòng tin như thế. Anh để cho người ta khiêng lên mái
nhà, dỡ mái thòng xuống mà không phản đối và không sợ hãi gì hết. Và
nhất là khi đã được đặt trước mặt Chúa, anh không xin gì, không nói gì
cả. Bởi vì anh tin rằng Thiên Chúa biết mọi sự, Ngài biết anh đang cần
gì. Anh biết rằng Thiên Chúa thương anh hơn chính anh. Anh chỉ ngước mắt
nhìn Chúa và chờ đợi. Rồi câu nói đầu tiên của Chúa lại là lời tha tội
chứ không phải là lời chữa bệnh. Anh vui lòng chấp nhận, bởi vì anh biết
Thiên Chúa bao giờ cũng có lý hơn anh. Chính do lòng tin mạnh mẽ đó anh
đã được Chúa Giêsu cứu chữa.
Bài học thứ ba, những kinh sư là những
người chứng kiến phép lạ ấy. Họ không bại liệt về thể xác, nhưng họ lại
bại liệt về tinh thần. Có thể nói: Họ có một chứng bại liệt trong trái
tim, bởi vì họ không cảm nhận được nỗi khổ của người bại liệt, và cũng
không cảm nhận được niềm vui của người ấy khi được chữa khỏi. Họ còn mắc
chứng bại liệt trong trí khôn, bởi vì họ không hiểu được, hay đúng hơn,
họ không muốn hiểu lời Chúa cắt nghĩa. Chúa bảo họ rằng: Ngài có quyền
tha tội. Lời Chúa thật rõ ràng. Một trí khôn bình thường có thể hiểu ra
ngay, nhưng họ không muốn hiểu. Rồi họ còn mắc chứng bại liệt trong
lương tâm, bởi vì họ quyết tâm làm hại Chúa mà lương tâm họ không áy náy
gì. Đúng lý ra khi thấy Chúa nhân lành, cư xử tốt, cứu giúp người bệnh
tật, thì họ phải vui, phải ca ngợi Chúa. Nhưng không, họ bực tức, họ khó
chịu.
Tất cả chúng ta không bị bại liệt về
thể xác nhưng chúng ta có lòng tin mạnh mẽ của người bại liệt được Chúa
chữa lành không? Và rất có thể chúng ta đang mắc chứng bại liệt tinh
thần trong trái tim, trong trí khôn hay trong lương tâm chăng? Đừng cố
chấp, chai lì như những kinh sư và Pharisêu, trái lại, hãy khiêm nhường,
tin tưởng vào quyền phép và tình thương của Chúa.
Báo chí đã thuật lại rằng: Vào đêm kia,
một đám cháy bùng lên tại một ngôi nhà. Tức khắc trong ngọn lửa phừng
phừng bốc cao, người ta thấy người cha, người mẹ và mấy đứa con chạy ra
sân. Bất chợt họ nhận ra thiếu thằng con trai út 5 tuổi. Ngay sau đó họ
nghe tiếng nó kêu cứu và ló đầu qua cửa sổ trên lầu. Thấy nó, ông bố
quát to: “Nhảy xuống đây”. Đứa bé chỉ thấy khói lửa mịt mù, nhưng nó
nghe ra tiếng cha nó, nó liền đáp: “Ba ơi, con không thấy ba đâu cả”.
Ông bố lại quát: “Ba thấy con, con cứ nhảy xuống có ba đỡ, đừng sợ”. Và
đứa bé đã nhảy xuống bình an vô sự, vì ông bố đã kịp đỡ lấy nó.
Đứa bé trong ngôi nhà bốc cháy ấy là
hình ảnh diễn tả người Kitô hữu đứng trước mặt Thiên Chúa. Trong cơn
khốn quẫn, người ấy nghe ra tiếng Chúa bảo mình: “Hãy tin tưởng vào Ta,
hãy nhảy vào vòng tay của Ta”. Và người Kitô hữu ấy rất nhiều phen đã
muốn trả lời: “Chúa ơi, con chẳng thấy Chúa đâu cả” và đã tưởng rằng
Thiên Chúa bỏ rơi mình. Không, Thiên Chúa không bao giờ quên ai cả, chỉ
có người ta quên Chúa mà thôi.
Câu hỏi gợi ý:
1. Đức Giê-su có chứng tỏ Ngài có quyền
tha tội không? Chứng tỏ bằng cách nào? Nếu chỉ một mình Thiên Chúa mới
có quyền tha tội thì ta phải kết luận thế nào về Đức Giê-su?
2. Các kinh sư đã cố tình không nhận ra
Đức Giê-su chính là Thiên Chúa khi Ngài tỏ ra có quyền năng tha tội. Có
bao giờ chúng ta cũng cố tình không nhận ra Thiên Chúa hay Đức Giê-su
trong tha nhân sống chung quanh ta không? hay trong những người Ngài
đang dùng để hoạt động cho thế giới hay trong Giáo Hội không?
3. Nếu có ai xúc phạm đến bạn, nhưng
lại có ai đó - cha mẹ, thầy dạy, v.v... - tha tội cho người ấy thay cho
bạn, thì bạn nghĩ thế nào? Người ấy làm như thế có đúng không? Bạn nghĩ
thế nào về việc Đức Giê-su tha tội cho người này người kia khi họ xúc
phạm đến một người khác nữa không phải là Ngài?
Suy tư gợi ý:
1. Đức Giê-su có quyền tha tội
Khi nghe Đức Giê-su nói với người bị
bại liệt: «Này con, con đã được tha tội rồi», lập tức các kinh sư Do
Thái cảm thấy câu nói ấy có vấn đề. Họ chỉ thắc mắc thầm trong bụng:
«Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta phạm thượng! Ai có quyền tha
tội, ngoài một mình Thiên Chúa?» Phải nói rằng thắc mắc như vậy là rất
hợp lý, vì tội là điều phạm đến Thiên Chúa, là vi phạm luật lệ do Thiên
Chúa ban hành, nên chỉ một mình Thiên Chúa mới có quyền tha tội mà thôi.
Tôi nghĩ rằng thắc mắc như thế hoàn toàn không có gì đáng trách, mà
trái lại còn đáng khen nữa. Trước thắc mắc ấy, nhiệm vụ của Đức Giê-su
là phải chứng tỏ cho họ thấy câu nói của mình vừa rồi là đúng hay sai.
Và Ngài đã chứng tỏ bằng một sự kiện hết sức ngoạn mục là làm cho «người
bại liệt đứng dậy, và lập tức vác chõng đi ra trước mặt mọi người», sau
khi ra lệnh cho anh ta: «Ta truyền cho con: Hãy đứng dậy, vác chõng mà
về!»
Như vậy, Ngài đã chứng tỏ cho các kinh
sư có mặt ở đấy rằng Ngài có quyền tha tội bằng một phép lạ mà chỉ có
thần linh mới có thể làm được. Nếu chỉ một mình Thiên Chúa có quyền tha
tội, mà Ngài đã chứng tỏ bằng một sự kiện trước mắt là mình đã tha tội
một cách hữu hiệu, thì kết luận hợp lý chỉ có thể là Ngài chính là Thiên
Chúa, hay Thiên Chúa với Ngài là một (lập luận số 1).
2. Thiên Chúa có thể mặc lấy những hình dạng ta không ngờ
a) Thiên Chúa hiện thân trong tha nhân của ta
Trước sự kiện ấy, đáng lẽ các kinh sư
phải nhận ra Ngài là ai, nhưng họ lại cố tình không nhận ra điều ấy. Có
lẽ tâm lý của họ là không thể nào tưởng tượng được một Thiên Chúa toàn
năng cao cả lại có thể mặc lấy hình dạng một con người rất bình dị, thậm
chí có vẻ thuộc một giai cấp kém hơn họ, học hành hay bằng cấp không
bằng họ. Đặt mình vào địa vị của họ, chắc hẳn rất nhiều người trong
chúng ta - cả tôi nữa - cũng sẽ suy nghĩ và hành động như họ. Chính vì
thế, tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải rút ra bài học cho mình: Thiên Chúa
có thể mặc lấy hình dạng mà trí tưởng tượng ta không ngờ tới được. Đặc
biệt nhưng cũng thông thường nhất, Ngài mặc lấy hình dạng của những tha
nhân sống chung quanh ta, bên cạnh ta, nhất là những người đang chịu đau
khổ, bị khinh rẻ và áp bức bất công vì nghèo hèn mà không nói lên
được...
b) Thiên Chúa hiện thân nơi những người Ngài sai đến
Một trong những lỗi thông thường nhất
của chúng ta - tương tự như lỗi của các kinh sư nói trên - là chúng ta
khó có thể chấp nhận những người đại diện cho Thiên Chúa ở trần gian lại
là những người kém hơn mình mặt này mặt nọ, thậm chí rất nhiều mặt. Còn
các nhà lãnh đạo xã hội hay tôn giáo cũng khó có thể nhận ra các ngôn
sứ của Thiên Chúa trong thời đại mình khi thấy họ thuộc giai cấp kém hơn
mình, hoặc nói những điều mà theo sự hiểu biết của mình thì khó mà chấp
nhận được.
Thật ra, nếu các ngôn sứ mà nói đúng
như mọi người vẫn nghĩ, vẫn quan niệm, thì có bao giờ họ lại bị bách
hại, bạc đãi? Nhưng theo Đức Giê-su, ngôn sứ đích thực thì hầu như bao
giờ cũng bị thế gian bạc đãi (x. Lc 6,23), vì họ luôn luôn đến để nâng
cao trình độ tâm linh của con người lên. Điều đó buộc mọi người phải
thay đổi quan niệm cũ. Điều này là nguyên nhân chính khiến các ngôn sứ
bị người đồng thời bách hại vì họ hiểu lầm các ngôn sứ là phá hoại.
Những người chấp vào quan niệm cũ chắc chắn sẽ bị vấp phạm và gây vấp
phạm (x. Lc 20,18; Mt 11,6; 15,12; Mc 6,3). Nếu đọc kỹ Lời Chúa, chúng
ta sẽ rút ra được những tiêu chuẩn đúng đắn để phân biệt và nhận ra ngôn
sứ thật. Người ta nhận lầm ngôn sứ giả là ngôn sứ thật và ném đá hay
kết án những ngôn sứ thật chính vì người ta đã dựa vào những tiêu chuẩn
của con người. Đương nhiên không phải ai nói khác với quan niệm chung
của mọi người cũng đều là ngôn sứ.
3. Đức Giê-su có thể tha cả những tội ta phạm tới tha nhân
Trở lại việc Đức Giê-su có quyền tha
tội. Trên nguyên tắc, tội phạm tới ai, thì chỉ có người ấy mới có quyền
tha. Thật là phi lý khi A xúc phạm hay gây thiệt hại cho B, mà C - một
người khác - lại thay cho B để tha lỗi cho A. Cho dù C là cha mẹ hay chủ
nhân của B, thì việc tha lỗi dùm như thế khó có thể chấp nhận được đối
với những ai đòi hỏi sự hợp lý. Ta thấy tòa án ngoài đời không hề có
quyền tha tội cho ai khi người ấy thật sự có tội. Nếu tòa án tuyên bố bị
can trắng án là do tòa án chứng minh được người ấy vô tội. Nếu bị can
có tội mà tòa án vẫn tha là tòa án đã vi phạm luật pháp. Vậy ta phải
giải thích thế nào về việc Đức Giê-su tha cho ta những tội hay sự xúc
phạm ta làm cho người khác chứ không phải làm cho Ngài?
Có hai điều có thể giả định: một là
Ngài làm như thế là phi lý, hai là Ngài làm như thế là hữu lý. Là Ki-tô
hữu, chắc chắn chúng ta không thể chấp nhận Ngài phi lý được. Ngài không
thể phi lý! Vì thế, nếu ta thấy việc Ngài-tha-tội-dùm-cho-người-khác là
phi lý thì chính vì ta chưa thấy được sự hợp lý của nó mà thôi. Sự hợp
lý đó nằm ở chỗ nào?
Lập luận sau đây (số 2) cũng tương tự
như lập luận trên (số 1). Nếu chỉ có người bị xúc phạm mới có quyền tha
cho người xúc phạm mình, mà chính Đức Giê-su lại cho rằng mình có quyền
tha như vậy, thì kết luận hợp lý phải là: Ngài chính là người bị xúc
phạm, hay nói rõ hơn người bị xúc phạm và Ngài chỉ là một. Nói cách
khác, khi ta xúc phạm đến tha nhân của ta, là ta xúc phạm đến chính Đức
Giê-su: chính Ngài bị xúc phạm, thậm chí còn nhiều hơn cả người đang
được coi là bị xúc phạm nữa. Thật vậy, nhiều lần trong Tin Mừng Ngài đã
tự đồng hóa Ngài với tha nhân của ta, chẳng hạn: «Ta bảo thật các ngươi:
mỗi lần các ngươi làm (hay không làm) như thế cho một trong những anh
em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm (hay không làm) cho chính
Ta vậy» (Mt 25,40.45).
Rất có thể chúng ta cũng hành động
tương tự như những kinh sư Do Thái trong bài Tin Mừng hôm nay: cố tình
không nhận ra Thiên Chúa hay Đức Giê-su ở trong hình dạng của những
người anh chị em đang sống chung quanh ta.
Cầu nguyện
Lạy Cha, lời của Đức Giê-su thật là rõ
ràng cho con thấy tha nhân chung quanh con chính là hình ảnh, là hiện
thân của Cha, của Đức Giê-su. Nhưng than ôi, con cũng cứng lòng không
kém gì các kinh sư xưa, cố tình không nhìn nhận như vậy, chỉ vì họ nhiều
khi khó thương quá, hèn kém quá. Xin cho con nhận ra sai sót của con và
tu sửa lại.
Trong khi Chúa giảng dạy thì dân chúng
đến vây quanh Người. Mỗi người đều có nhu cầu để xin Chúa, vì họ nghe
biết Chúa làm nhiều phép lạ. Một người trong họ xin Chúa chữa khỏi bất
toại. Chúa dùng cơ hội này để dạy đám đông, cho họ cái nhìn sâu hơn về
sứ mệnh của Chúa giữa loài người. Chúa dùng việc chữa lành như một cơ
hội để nói về việc tha tội. Không những Chúa ban cho người bất toại điều
anh ta xin, nhưng còn ban cho anh ta điều anh ta cần, không những ban
cho anh ta được phục hồi khỏi bất bệnh phần xác, mà còn ban cho anh ta
được phục hồi khỏi tội linh hồn. Chúa dùng lời quyền thế để nói với
người bất toại: "Tội con đã được tha rồi" (Mc 2,5). Bằng lời nói đó Chúa
Giê-su đồng hoá với Thiên Chúa. Và đám đông lấy làm vấp phạm về lời
Chúa nói: Làm sao ông ta dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng! Ngoài
một mình Thiên Chúa ra, ai có quyền tha tội? (Mc 2,7).
Tuy nhiên Chúa Giê-su đi guốc trong
bụng họ, biết họ đang nghĩ gì nên quyết định làm chứng lời Người nói
bằng hành động:" Để các ông biết Con Người có quyền tha tội dưới đất, Ta
truyền cho anh chỗi dậy, vác chõng mà về "(Mc 2,10-11). Đám đông càng
lấy làm sửng sốt hơn nữa, bởi vì ngoài việc chữa bệnh phần xác, Chúa còn
chữa trị bệnh phần hồn, ban cho anh ta sự bình an, và đời sống mới
trong ơn thánh, hơn cả cái điều anh ta xin.
Bài trích Sách tiên Tri Isaia hôm nay
cho thấy, Thiên Chúa dùng miệng lưỡi vị Tiên Tri để loan báo Người sẽlàm
mới lại lời giao ước trên núi Sinai. Mặc dầu dân riêng của Chúa thường
bất trung, Chúa vẫn muốn đưa dẫn họ trở về nhà Chúa: "Ta sẽ xoá bỏ sự
gian ác của ngươi, và sẽ không còn nhớ đến tội ngươi nữa "(Is 43,25).
Theo Thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Corintô thì lời Chúa hứa đã
được thực hiện nơi Đức Giê-su. Sau khi sống lại từ cõi chết, Chúa Giê-su
hiện ra với các tông đồ và phán: Hãy nhận lấy Chúa Thánh Thần. Các con
tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Bằng những lời này, Chúa Giê-su
ban quyền tha tội cho các tông đồ và những người kế vị trong Giáo hội.
Lời Chúa tha tội cho người bất toại cũng thường được nói với ta. Đó là
lời ban ơn tha tội và chữa lành, lời ban bình an và sự sống mới. Phúc Âm
hôm nay ghi lại Chúa Giê-su động lòng trắc ẩn vì đức tin quả quyết và
sắt đá của người bất toại và của bạn hữu anh ta. Trèo lên mái nhà, rỡ
mái để hạ người bất toại xuống là một việc làm quyết tâm và tin tương
vào quyền năng và quyền phép của Thiên Chúa. Phúc âm không ghi lại nhà
đó là của ai, cũng không nói người chủ nhà có đòi bồi thường vì mái nhà
của họ bị rỡ hay không. Có lẽ ngày xưa mái nhà đục lợp đơn giản và dân
làng quen biết nhau cho nên họ thông cảm với người bất toại, mà không
đòi bồi thường.
Để đáp ứng lòng tin của người bất toại
và của các bạn hữu anh ta, Chúa đã chữa lành cho anh. Đám đông ngạc
nhiên và ca tụng Thiên Chúa vì người đã làm một việc trọng đại qua Người
Con. Phép lạ của Chúa là dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa chứ không
hẳn chỉ là việc làm do lòng thương xót. Bất cứ khi nào làm phép lạ, Chúa
đều nại đến đức tin: đức tin đưa đến phép lạ, đức tin đem ơn chữa lành.
Khi người Pha-ri-siêu xin Chúa một dấu lạ trên trời để thử Người, Chúa
đã từ chối vì họ thiếu lòng tin. Phúc Âm Marcô có ghi lại: "Chúa thở dài
và nói: Tại sao thế hệ này lại xin điều lạ? Quả thật, Ta bảo các ông
hay: sẽ chẳng cho thế hệ này điều lạ nào. Rồi Người bỏ đi." Như vậy ta
thấy, nếu không có đức tin, sẽ không có phép lạ
24. Chú giải mục vụ của Jacques Hervieux
ƠN THA THỨ CHO MỘT KẺ BẠI LIỆT
Với hình thức chúng ta hiện có, trình
thuật về việc Chúa Giêsu chữa lành người bại liệt đặt trọng tâm nơi cuộc
tranh luận giữa Chúa Giêsu và các luật sĩ về quyền tha tội (c. 5b-10).
Khởi đầu là quang cảnh hiền hòa (c.1). Ở
đây chúng ta đang trở về Caphanaum là nơi Chúa Giêsu đã khởi đầu sứ vụ
của Ngài (1,21). Căn nhà Ngài đang ngụ có thể là nhà của Simon và Anrê
(1,29). Maccô nhấn mạnh đến làn sóng người và nhất là tình trạng kẹt
cứng vây quanh chỗ Chúa Giêsu ngồi (c.2). Đám dân xô lấn tới nghe Ngài
đông quá đến nỗi nhà cửa bị tắc nghẽn. Vị Đạo Sư trông chẳng khác gì
đang bị đám quần chúng nhốt kín. Và đám quần chúng này gây trở ngại
nghiêm trọng cho bất cứ ai ở ngoài muốn gặp Chúa. Vậy mà này đây có bốn
người khệ nệ khiêng một bệnh nhân bại liệt đến. Rõ ràng đây là trường
hợp khẩn cấp. Kẻ bại liệt này vừa bị “khai trừ” khỏi đám người khỏe
mạnh, bị khai trừ khỏi cộng đoàn đang vây quanh Chúa Giêsu. Chiến thuật
tinh vi dỡ nhà do các tay khiêng cáng rất gây khả năng cho độc giả.
Chiến thuật này mặc khải rõ về cách thức xây nhà vào thời đại đó. Nhà
cửa ở Palestin thường không có tầng lầu, mái nhà bằng phẳng nên rất dễ
leo lên, và mái làm bằng cành cây và đất nện vì thế dễ dàng bị đục thủng
lỗ. Quả đây là một “phát minh” đáng khâm phục: Chúa Giêsu nhận ra ngay
đức tin của những kẻ xâm nhập này. Họ dám cắt ngang cuộc trò chuyện giữa
vị Đạo Sư và quần chúng của Ngài (c. 5a). Tuy nhiên điều mà mọi người
sửng sốt lại chính là những lời thốt ra từ miệng vị Đạo Sư. Lúc đó hẳn
người ta ai cũng mong chờ Ngài thốt ra một lời công bố chữa lành người
bệnh. Điều này mãi sau mới được ghi nhận (c. 11). Thay vào đó, Chúa
Giêsu lại tuyên bố với người bại liệt: “Con đã được tha tội rồi” (c.5b).
Ngài cố tình đưa ra công thức trên ở thể thụ động theo đúng lối nói của
mọi người Do Thái đàng hoàng là tránh đề cập đến danh xưng của Chúa.
Tuy nhiên rõ ràng Chúa Giêsu muốn cho cử tọa hiểu rằng chính Ngài ban
phát sự tha thứ đó!
Ngay khi Chúa Giêsu thốt ra lời tuyên
bố chủ chốt này thì lập tức cuộc tranh cãi đã khơi mào. Trong tâm trí
các luật sĩ hiện ra lời buộc tội: “Ông này quả đã phạm thượng khi dám
cho mình quyền tha tội, điều mà chỉ riêng Thiên Chúa mới được quyền làm”
(c.6-7). Phản ứng của các “chuyên gia” Kinh Thánh này cũng dễ hiểu
thôi. Theo Thánh Kinh, chỉ mỗi mình Thiên Chúa nắm quyền tha tội cho
người ta. Tuy nhiên lời cáo buộc Chúa Giêsu là kẻ phạm thượng đã mang
độc giả vào bầu khí sâu độc của cuộc xử án vị Đạo Sư để đưa Ngài đến
cuộc tử nạn (14,63-64).
Lúc này đây, Chúa Giêsu muốn vạch trần
các tư tưởng đang nhởn nhơ trong tâm trí đám đối thủ Ngài. Ngay trước
khi giải nghĩa cho họ rõ, Ngài đã dùng những câu hỏi thích đáng dồn đám
luật sĩ kiêu hãnh về kiến thức của họ vào chân tường (c.9). Chắc chắn
tuyên bố ra một lời tha tội thiêng liêng, hiệu quả không kiểm chứng được
rõ ràng, thì dễ hơn làm cho một kẻ bị bại liệt đứng lên đi được. Tuy
nhiên cuộc tranh luận này đạt tới đỉnh cao trong lời công bố long trọng
của Chúa Giêsu rất đáng mọi người ghi nhớ (c. 10). Lần đầu tiên trong
Tin Mừng của mình, Maccô đã đặt vào miệng Chúa Giêsu thành ngữ “Con
Người”. Ý nghĩa của thành ngữ này xem ra khó hiểu và gây tranh luận.
Trong tiếng Hy Bá Lai cũng như tiếng Aram, từ ngữ “một con người” chỉ
đơn giản ám chỉ “một người” (x. Ed 2,1; 3,1-4 v.v…). Tuy nhiên vào thế
kỷ II trước Chúa Giêsu Kitô ra đời, người ta thấy xuất hiện trong sách
Đanien thành ngữ: “Giống như một CON NGƯỜI” huyền diệu được Chúa ủy thác
cho mọi vương quyền trên trái đất (Đn 7,13-14). Và trong truyền thống
Do Thái mãi cho đến thời Chúa Giêsu, khuôn mặt kỳ bí này đã công khai
mang ý nghĩa nói về Đấng Mêsia. Con người chính là Đấng Mêsia được Thiên
Chúa ủy thác trọn vẹn quyền lực để xét xử và cứu độ hoàn vũ vào thời
chung cuộc.
Như vậy ở đây Chúa Giêsu tự khoác lên
mình tước hiệu “Con Người” cũng như quyền lực thần linh của Ngài để biện
minh chi hành vi Ngài tha thứ tội lỗi cho người bại liệt nọ. Ngài tự
trình bày mình là Đấng Mêsia thông dự trọn ven vào quyền năng của Thiên
Chúa. Quả là sự tự nhận đáng mọi người chúng ta lưu ý! Trước kia các
tiên tri đã loan báo việc tha tội là một trong những sự cố dành riêng
cho thời kỳ cứu độ (Gr 31,31-34; Ed 36,25-29). Sự tha thứ tội lỗi được
xem như hành vi nền tảng của ơn cứu độ, là trọng tâm của Giao Ước mới
bởi vì Chúa Giêsu sẽ hiến dâng mạng sống mình để tha thứ tội lỗi chúng
ta (x. Mt 26,28). Và điều chắc chắn làm các luật sĩ cực kỳ khó chịu là
Chúa Giêsu đã dùng một lời nói đơn giản giữa đám đông thế này đang khi
lẽ ra hành vi “hiến dâng để tha tội” phải được thực hiện đúng chỗ nơi
đền thánh Giêrusalem (Lv 6,17-23). Chữa người bại liệt này rõ ràng là
Chúa Giêsu muốn chứng tỏ Ngài nắm trong tay quyền tha tội (c. 11-12a).
Bệnh nhân lúc đầu nằm sóng soài trên chõng khác gì một xác chết. Thế mà
giờ đây chẳng những đã đứng dậy mà lại còn vác chõng đi nữa chứ. Khi bảo
anh ta: “Hãy đứng dậy” Chúa Giêsu đã sử dụng động từ sau này sẽ được
dùng để nói về cuộc Phục Sinh của Ngài (16,6). Lệnh Chúa truyền cho anh
ta có thể được nói như sau: “Hãy sống lại!”. Qua điều này, chúng ta thấy
rõ Maccô đã đọc lại biến cố trên dưới ánh sáng Phục Sinh nhằm động viên
các Kitô hữu thời đại ông. Thêm vào đó “căn nhà” nơi Chúa giảng dạy đã
trở nên nơi tụ họp thường xuyên của cộng đoàn Kitô giáo trong thời Giáo
Hội sơ khai (Cv 12,12). Ngay từ đầu, Maccô đã ghi nhận Chúa Giêsu chọn
nơi đó để “loan báo lời Ngài” (c. 2b). Trong Giáo Hội đang trưởng thành,
thành ngữ “loan báo lời Ngài’ là từ chuyên môn để chỉ sự công bố Tin
Mừng (Cv 4,29-31; 8,25). Và ở đây (cũng như ở 1,21-27), theo Maccô, đáng
ghi nhận là lời giảng dạy tuyệt vời nhất của Chúa Giêsu lại chính là
hành vi cứu độ của Ngài. Ơn cứu độ liên quan đến toàn bộ con người cả
hồn lẫn xác. Trong Cựu Ước, bệnh tật, đặc biệt bệnh bại liệt, là dấu chỉ
chứng tỏ người bệnh đã phạm tội (Lv 21,16-21). Chúa Giêsu đến kéo con
người ra khỏi bệnh tật và tội lỗi. Ý nghĩa sâu xa của tất cả các phép lạ
Ngài làm đã được thấy rõ qua trình thuật trên. Chuỗi tranh luận bắt đầu
với trang này sẽ vẫn còn tiếp diễn (2,13-3,6).
Cuộc tranh luận đầu tiên này với đám
luật sĩ khơi ngòi cho thấy quyền năng siêu nhiên nơi Chúa Giêsu. Ngài
đến làm đảo lộn mọi hệ thống hy tế được nhà cầm quyền Do Thái lập nên
với mục đích cầu ơn tha thứ của Thiên Chúa. Hành vi cứu độ và tước hiệu
nhiệm mầu nơi Ngài đã nêu lên mãnh liệt vấn nạn về nhân cách sâu thẳm
của Ngài: Người này là ai vậy?
Đoạn cuối trình thuật (.12b) rõ ràng cho thấy đám cử tọa im thin thít trước thái độ của vị Đạo Sư.
25. Chú giải của Noel Quesson
Đức Giêsu trở lại thành Caphácnaum. Hay tin Người ở nhà, dân chúng kéo tới rất đông, đến nơi ngoài cửa cũng không còn chỗ đứng.
Chúng ta còn nhớ, Đức Giêsu đã sống
"ngày đầu tiên" lời tác vụ của Người tại Caphácnaum. Sau vài ngày rảo
quanh tại Ga-li-lê, Người lại trở về. Người ta xì xào: "Người đang ở
nhà". Máccô cảm thấy không cần phải nói rõ. Nhưng ta có thể tin rằng đó
là căn nhà của Phêrô và Anrê.
Đức Giêsu cố tìm sự yên tĩnh "trong nơi
hoang vắng" (Mc 1,13 - 1,34 - 1,45) . Đám đông cứ đeo bám quấy rầy
Người. Điều này chứng tỏ niềm mong đợi Đấng Mê-si-a của lân chúng thật
mơ hồ. Có thể nói, họ còn hoàn toàn mơ hồ ngay cả việc kiếm tìm Thiên
Chúa nữa: chúng ta kiếm tìm Thiên Chúa nào đây? Đức Kitô đã tỏ ra là một
người có sức hấp dẫn, lôi cuốn... nhưng điều đó cũng không minh chứng
bao nhiêu. Nói rằng ta "ủng hộ Đức Giêsu “, cũng không có nghĩa gì cho
lắrn. Đức Giêsu thường ngờ vực về thái độ bốc đồng đó. Thế nên, khi từng
đoàn lũ dân chúng tụ họp lại.. Đức Giêsu cũng không dễ gì bị lừa: sự
kiện đó không hứa hẹn điều gì giá trị cả... bởi vì người ta chỉ chờ đợi
nơi Người những ân huệ trước mắt. Đừng quên rằng, thỉnh thoảng cũng có
những người cuồng tưởng đứng lên, tuyên bố mình là Đấng Mê-si-a mọi
người đang mong đợi, và cũng lôi cuốn được nhiều đám dân chúng. Như thế,
ta có thể hiểu rõ hơn, tại sao Đức Giêsu lại tỏ ra nghi ngờ những cuộc
tụ họp đông đảo của dân chúng. Còn tôi thì sao? Tôi nghĩ thế nào về
Thiên Chúa?
Người giảng Lời Thiên Chúa cho họ nghe.
Đối với Đức Giêsu, đó là điều cốt yếu
cho dù dân chúng có đến để "nhìn xem dấu lạ", để có cảm giác mạnh và phi
thường về một việc làm mang tính thần thiêng giả tạo, thì Đức Giêsu vẫn
cương quyết giữ đúng sứ vụ của mình: Huấn luyện và giáo dục một con
người mới. Và để thực hiện công việc đó, phương 'tiên hay nhất không
phải là việc kỳ diệu nhưng rất đơn thuần chỉ là "lời nói", lời nói bình
thường của con người, coi như "phương tiện truyền thông và đối thoại"
giữa người này với kẻ khác, một "tiếng gió nhẹ nhàng, một làn sóng bé
nhỏ từ một tâm hồn này đến một tâm hồn kia, để tạo lập giữa họ một sự
"thông hiệp" thiêng liêng.
Tôi dành nhiều thời gian để chiêm ngắm
Đức Giêsu đang nói. Bản văn Hy Lạp của Máccô ghi rõ: "Người nói với họ
Lời". Khi viết câu đó Máccô có thể đã nghĩ đến những bài giáo lý thâm
sâu, là phần cốt thiết trong những buổi họp mặt đầu tiên của các Kitô
hữu, để cùng nhau cử hành phụng vụ. Vâng, "việc làm đầu tiên" của Đức
Giêsu, khi Người quy tụ chúng ta mỗi Chúa nhật, " Ngày của Người", đó
là, “nói với chúng ta Lời". Các Kitô hữu đến tham dự thánh lễ chậm trễ,
có nhận ra rằng họ để mất một điều quan trọng không. Họ bỏ lỡ một việc
mà Đức Giêsu quan tâm nhất, một việc mà Người luôn làm trước tiên: Họ bỏ
phần Phụng Vụ Lời Chúa! Thiên Chúa nói, thế mà họ lại không hiện diện ở
đó! Họ đã có việc gì quan trọng phải làm, đến nỗi đã không đến đúng
hẹn? Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con sốt sắng hiện diện và chăm chú
lắng nghe khi Chúa ngỏ lời.
Bấy giờ người ta đem đến cho Đức Giêsu
một kẻ tê liệt, có bốn người khiêng. Nhưng vì dân chúng quá đông, nên họ
không sao khiêng đến gần Người được. Họ mới dỡ mái nhà, ngay trên chỗ
Người ngồi, dỡ xong, họ thả người tê liệt đang nằm trên chõng xuống.
Cả ba thánh sử Máccô, Mát-thêu và Luca
đều thuật lại hình ảnh trên. Nhưng chỉ có Máccô là ghi đầy đủ chi tiết
Nhà của người phương Đông thời đó đều có sân thượng. Người ta có thể leo
lên "mái" bằng một cầu thang phía ngoài. Trần nhà đulợc làm bằng những
cây sậy đặt trên những xà và được trát phủ lên trên bằng một lớp bùn
khô. Do đó, "bốn" người khiêng chõng đã quyết định khoét một lỗ trên sân
thượng, cầm bốn đầu dây thừng thòng người bệnh xuống. Phải làm như thế
mới được! Và việc làm cầu kỳ ngộ nghĩnh này, hình như đã làm cho Maccô
rất cảm kích. Đối với chúng ta, thì đây là một đoạn phim hay, quay rất
khéo, một cảnh "giật gân"! Ta cứ tưởng như các nhà báo đang cầm máy hình
trên tay. Nhưng Máccô đâu có quan tâm đến yếu tố lịch sử như con người
hiện đại kiếm tìm một tài liệu. Đối với ông, những chi tiết cụ thể trên
là một "hình tượng", một bức tranh mang ý nghĩa tín lý: Đức Giêsu "thấy
đức tin của họ" đã nói... Đúng vậy, cảnh thòng người từ trên mái nhà
xuống, minh chứng lòng tin của những kẻ khiêng người bệnh. Đức tin là
điều kiện để Chúa làm phép lạ: đó là một tư tương quan trọng đối với
Mác-cô. Đến nỗi, ông nói, Đức Giêsu "không thể làm phép lạ" khi người ta
thiếu lòng tin (Mc 6,5 - Mc 9,21-24). Còn tôi thì sao? Đức tin của tôi
thế nào? Đức tin đã thôi thúc tôi làm gì?
Thấy họ có lòng tin như vậy, Đức Giêsu bảo người tê liệt: "Này con, con đã được tha tội rồi”.
Kỳ thật! Người ta đang mong chờ một
phép lạ . Thế mà Đức Giêsu lại không thể hiện. Nào, thử xem Người có
chịu chữa lành anh ta không, khi mà lòng tin của những người khiêng anh
ta đã vượt qua biết bao trở ngại? Đối với Đức Giêsu, đây còn là một điều
cốt yếu nữa. Thay vì để cho người ta lôi kéo mình đóng vai trò một pháp
sư một "Đấng Mê-si-a làm phép lạ", một "người gây ấn tượng mạnh". Đức
Giêsu đã nhấn mạnh tới đức tin của con người và Người chỉ thực hiện một
việc thiên sai hoàn toàn nội tâm: Người tha tội? ở đây không có sự thú
tội, xưng tội, hay lời xin tha tội. Những người này tuôn đến không nhắm
tội điều đó! Thế nhưng, vì thói quen, Thiên Chúa ban tặng nhiều hơn là
con người chờ mong.
Người không bị ràng buộc vào những
trông chờ, nài xin của con người? Người trao ban nhiều hơn! Người cho đi
hết khả năng mình, cách nhưng không, không kể gì công nghiệp của ta.
Chúng ta có chú ý những gì đã xảy ra
lúc đó trong bối cảnh như thế: người tê liệt nài xin được chữa lành vẫn
còn nằm đó, vẫn bị liệt như trước! Đó cũng là tình trạng thường xảy ra
cho ta. Chúng ta gặp một tình huống gây khổ sầu. Ta nài xin Chúa giải
gỡ. Nhưng bề ngoài, mọi sự vẫn như trước. Có thể ta tưởng rằng Thiên
Chúa không nhậm lời ta xin. Thế nhưng nếu ta nhìn trong lãnh vực đức tin
mà đức tin làm ta thấy được cả những gì vô hình (Dt 11,1), thì mọi sự
đã biến đổi, nhưng ở bên trong.
Do đó, cảnh Tin Mừng trên chất vấn ta: chúng ta xin gì với Đức Giêsu?
Mấy kinh sư ngồi đó nghĩ bụng rằng:
"Sao ông này lại dám nói như vậy? ông ta nói phạm thượng. Ngoài một mình
Thiên Chúa ra ai có quyền tha tội?".
Đức Giêsu mới chỉ công khai rao giảng được ít ngày. Thế mà đã có những người hâm mộ, những kẻ kình chống và cũng có những người dửng dưng "không tin". Máccô tiếp tục trình thuật của ông để làm nổi bật thái độ chống đối đó Năm cuộc "tranh luận" gay gắt sẽ làm cho Đức Giêsu phải đương đầu với nhóm kinh sư và Pharisêu:
Đức Giêsu mới chỉ công khai rao giảng được ít ngày. Thế mà đã có những người hâm mộ, những kẻ kình chống và cũng có những người dửng dưng "không tin". Máccô tiếp tục trình thuật của ông để làm nổi bật thái độ chống đối đó Năm cuộc "tranh luận" gay gắt sẽ làm cho Đức Giêsu phải đương đầu với nhóm kinh sư và Pharisêu:
- Vấn đề tha tội (Mc 2,1-12).
- Vấn đề ngồi dùng bữa với kẻ tội lỗi (Mc 2,13-17).
- Vấn đề không ăn chay (Mc 2, 18-22).
- Vấn đề vi phạm ngày Sa-bát (Mc 2,22-28).
- Vấn đề vi phạm Luật (Mc 3,1-6).
- Vấn đề ngồi dùng bữa với kẻ tội lỗi (Mc 2,13-17).
- Vấn đề không ăn chay (Mc 2, 18-22).
- Vấn đề vi phạm ngày Sa-bát (Mc 2,22-28).
- Vấn đề vi phạm Luật (Mc 3,1-6).
Đức Giêsu là hiện thân lòng nhân từ của
Thiên Chúa, ấy thế mà chung quanh lại gặp toàn đối thủ. Ngay khi vừa
khởi sự Tin Mừng đã hiện lên cuộc thương khó . Đức Giêsu sẽ bị kết án
bởi chính nhóm kinh sư này, những nhà thông suốt về đạo, cũng vì lý do
"nói phạm thượng" (Mc 4,64).
Tôi chiêm ngắm Đức Giêsu đang bị kẻ thù
vây quanh và canh chừng. Cuộc sống hằng ngày của Người sẽ thực sự bi
thảm. Người ta rình rập từng lời của Người. Đức Giêsu luôn bị đưa ra
tòa. . . cho đến tận thế.
Vậy để các ông biết: "ở dưới đất này, Con Người có quyền tha tội".
Lần đầu tiên, Đức Giêsu tự khẳng định mình như “Con Người", như thế Người chấp nhận một lời sấm về Đấng Mê-si-a mà mọi người lúc đó đều biết. Thực vậy, Đa-ni-el đã diễn tả một Con Người đến trên mây trời: "Này đây, với mây trời, như thế một Con Người đi đến!...
Lần đầu tiên, Đức Giêsu tự khẳng định mình như “Con Người", như thế Người chấp nhận một lời sấm về Đấng Mê-si-a mà mọi người lúc đó đều biết. Thực vậy, Đa-ni-el đã diễn tả một Con Người đến trên mây trời: "Này đây, với mây trời, như thế một Con Người đi đến!...
Người được ban tạng quyền bính (tiếng
Hy Lạp là exousia), vinh dự, vương triều. Tất cả các dân, các nước, các
tiếng nói phải làm tôi Người. Quyền bính của .Người sẽ không bị hủy" (Đn
7,13-14.). Ta nên để ý tới việc lập lại từ "quyền bính": đó là một từ
chủ chốt. Mác-cô đặt nơi môi miệng Đức Giêsu đúng cùng một từ và trong
cùng một bối cảnh "Con Người có quyền tiếng Hy Lạp là exousia) tha tội".
Quyền này là quyền của vị Thẩm phán cánh chung, Đấng phán xét ngày tận
thế.
Sau này Đức Giêsu sẽ hai lần trích lại
cùng một lời sấm của Ngôn sứ Đa-ni-en trên: một lần để loan báo Đền
Thánh sẽ bị phá hủy (Mc 13,26), và lần khác trong khi Người bị kết án
tước Thượng Hội Đồng Do Thái (Mc 14,6). Vâng, chúng ta tin rằng, Đức
Giêsu có "quyền" của vị Thẩm phán ngày cánh chung, nhưng ta cũng cần ghi
nhận, hình như quyền này không dùng "để phạt", nhưng "để tha thứ" Và
kinh Tin kính của người Kitô hữu chúng ta, không buộc ta phải tin vào
tội nhưng vào "ơn tha tội".
Ngay từ đầu Tin Mừng, chúng ta đã được
yêu cầu cần thay đổi quan niệm về Thiên Chúa: ta phải thấy rằng, tội lỗi
trước hết không thể là điều khiến ta xấu hổ, khó thú nhận, khó sửa
sai... nhưng đó là yếu tố tạo cho Thiên Chúa có dịp biểu lộ tình yêu của
Người cho ta. Ngay cả khi không có một chút ăn năn nào trong tâm hồn
con người, thì Chúa đã thứ tha cho ta, và đặt trước mọi giá trị nơi đó.
Người cũng "đoán trước" lời xin tha tội của ta: "Quả vậy, khi chúng ta
còn yếu, không có sức làm được gì, thì theo đúng kỳ hạn. Đức Kitô đã
chết vì chúng ta, là hạng người nghịch cùng Thiên Chúa" (Rm 5,6).
Tôi truyền cho anh: "Hãy đứng dậy, vác
chõng đi về nhà” Dưới ngòi bút của Máccô, ta gặp lại từ "égeirô" trên
đây, vừa có nghĩa là "chỗi dậy", "thức dậy", vừa là "sống lại". Và chính
vào chiều tối Ngày Lễ Vượt qua, chiều tối Phục sinh Đức Giêsu sẽ ban
cho con người quen tha tội (Ga 20,23). Đó là quyền năng thực sự của
Người.
Ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa. Họ bảo nhau: "Chúng ta chưa thấy vậy bao giờ”.
Mọi Phụng vụ sám hối đều kết thúc bằng một Phụng vụ ban ơn.
26. Gợi ý bài giảng của Giáo Hoàng Học Viện Đà LạtMọi Phụng vụ sám hối đều kết thúc bằng một Phụng vụ ban ơn.
NGƯỜI BẤT TOẠI ĐƯỢC THA TỘI VÀ CHỮA LÀNH
1. Chúa Giêsu thán phục niềm tin của
người bất toại cũng như của những kẻ khiêng anh ta đến: vì muốn gặp
Chúa, họ đã vận dụng mọi cách để làm cho kỳ được. Ngày nay ai muốn gặp
Chúa, cũng phải biết hy sinh dẹp bỏ mọi chướng ngại vật quanh mình và
trong bản thân mình.
2. Một mình người bất toại không thể đi
gặp Chúa Giêsu, vì anh chẳng có sức cất bước. Anh phải để kẻ khác đỡ
nâng, khiêng vác mình. Nhìn nhận các giới hạn, khiếm khuyết của ta,
khiêm tốn chấp nhận sự giúp đỡ cộng tác của anh em là phương thế chắc
chắn nhất giúp ta đi gặp Chúa. Và một khi được kẻ khác giúp đỡ đến lượt
ta cũng hãy mau mắn giúp kẻ khác như vậy.
3. Chúa Giêsu đã làm phép lạ và tha tội
cho bệnh nhân ngay trong nhà của Phêrô. Trong bài đọc Cựu ước, ngôn sứ
Isaia tiên hứa việc giải phóng cộng đoàn Israel khỏi kiếp sống lưu đày
Tin mừng cho thấy rõ ý nghĩa của tập đoàn: chính tập thể bệnh nhân tụ
họp trong nhà của Phêrô (x. Mc 1,29) đã được chữa lành và được ơn tha
thứ. Chính. Giáo Hội, nhà của các sứ đồ do Chúa Giêsu dựng nên, là nơi
ban ơn tha thứ. Vậy ta hãy đến lãnh lấy bí tích giải tội mà Chúa đã ban
qua Giáo Hội.
4. Như xưa đã cho dân Do thái xuất hành
khỏi Ai cập để đi về miền Đất hứa, ngày nay Thiên Chúa cũng dùng phép
giải tội như cuộc xuất hành thứ hai đưa ta ra khỏi ách nô lệ tội lỗi để
được vào sống trong tình yêu và gia đình của Ngài.
5. Nghe tin Chúa Giêsu đang ở trong
nhà, nhiều người tấp nập kéo đến (Mc 2,2). Họ là những ai? thôi thì đủ
thứ: hạng tò mò, hạng theo dõi để báo cáo, hạng đến nghe giảng, người
đến xin ban ơn ... họ tới bên Chúa Giêsu với những niềm vui, nỗi buồn
của cuộc sống. Thánh lễ chính là lúc Chúa chiêu tập mọi người đến bên
Chúa để bồi dưỡng, nuôi ăn. Đèn không sáng nếu hết dầu, xe không chạy
nếu cạn xăng hồn tông đồ sẽ suy mạt nếu không đến với Thánh Thể: ai
không ăn thịt Ta và uống máu Ta, chẳng được sống đời đời" (ĐHV 360).
6. "Ai nấy đều sửng sốt, ngạc nhiên và
ngợi khen Thiên Chúa" (Mc 212). Bỡ ngỡ ngạc nhiên và thán phục là tâm
trạng của những kẻ thấy mình bất xứng mà lại được Chúa đoái đến viếng
thăm, là thái độ của những tâm hồn đơn sơ, khiêm tốn, cởi mở dễ dàng
khám phá ra các dấu chỉ của thực tại của thời đại mình đang sống, mau
mắn nhận ra tiếng kêu mời của Thiên Chúa, sứ điệp của Tin mừng, việc
Nước Trời đang đến, người tự mãn, tự kiêu chẳng có tâm tình đó, vì họ
không thể và không muốn nhận ra các "việc diệu kỳ của Thiên Chúa” trong
đời của họ”.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét