Đức Ki-tô Phục Sinh và hai môn đệ trên đường Em-mau
(Lc 24, 13-35)
***
Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Ki-tô Phục Sinh của hai môn đệ xẩy ra
trên hành trình từ Giê-ru-sa-lem đi Emmau và từ Emmau trở về Giê-ru-sa-lem.
Hành trình gồm ba « chặng », xắp xếp theo cấu trúc đối xứng như sau : A (Bỏ đi
hay nhóm phân tán), B (Nhận ra Đức Ki-tô phục sinh), A’ (Trở lại hay nhóm tái
qui tụ). Như thế, kinh nghiệm nhận ra sự hiện diện của Đức Ki-tô phục sinh,
cùng với ơn hiểu biết mọi sự dưới sáng của mầu nhiệm Vượt Qua, có sức mạnh thay
đổi hướng đi khởi đi từ những thay đổi nội tâm sâu sa, mà chúng ta có thể gọi
là ơn “tái sinh”.
1. Trên đường Emmau
Chúng ta hãy hình dung ra dáng đi, vẻ mặt và tâm tình của
hai môn đệ như thế nào khi bỏ đi, nhưng sau đó được biến đổi như thế nào lúc trở
lại ; lúc đi : trời sáng lòng tối ; nhưng lúc về, trời tối, lòng sáng! Và tại
sao có sự thay đối lớn lao như thế ? Kinh nghiệm nào, đã làm cho hai môn đệ được
“tái sinh”?
Trên đường về làng Emmau: “Họ đang trò chuyện với nhau về tất
cả những sự việc mới xẩy ra” (c. 14), dáng đi nặng nề và “vẻ mặt buồn rầu” (c.
17). Tại sao vậy? Bởi vì « ngũ quan » của họ khép kín, bị ngăn chặn không mở ra
với những thực tại vô hình, họ chỉ nhìn vào các biến cố một cách khách quan và
cục bộ : tất cả những gì đã và vừa xẩy ra (c. 19-24) là chết rồi, là thất bại,
là ngõ cụt, là thất vọng, là không khởi đi từ đâu và cũng không dẫn tới đâu. Vì
thế, họ mất hướng đi và không tìm ra ý nghĩa cuộc đời.
Chúng ta chắc chắn đã và đang có những kinh nghiệm tương tự
như hai môn đệ Emmau: trò với nhau (hay “viết nhật kí”!) về “tất cả những sự việc
mới xẩy ra”, nhưng với vẻ mặt “buồn rầu”.
2. Dấu chỉ Kinh
Thánh và dấu chỉ Bẻ Bánh
Đức Kitô Phục Sinh tiến đến gần và cùng đi với họ, cách lặng
lẽ, vô danh, lắng nghe, quan tâm đến vấn đề của hai môn đệ trước khi giải
thích; và Ngài sẽ đồng hành với họ đến tận cùng. Đức Kitô vẫn tiếp tục làm như
thế đối với chúng ta, ngang qua nhiều trung gian, nhất là những người thân yêu,
những người có trách nhiệm, những người đồng hành trong đời sống cộng đoàn,
trong giai đoạn huấn luyện, trong hành trình đức tin, lúc tĩnh tâm…
2.1 Dấu chỉ Sách
Thánh
Trên đường Em-mau, hai môn đệ trách Đức Kit-tô là không biết
(c. 18); và sau khi nghe họ kể chuyện xong, Ngài trách họ là không hiểu: “Các
anh chẳng hiểu gì cả… Nào Đấng Ki-tô lại chẳng phải chịu khổ hình như thế, rồi
mới vào trong vinh quang của Người sao? (c. 25-26). Sau đó, “bắt đầu từ ông
Mô-sê và tất cả các ngôn sứ, Người giải thích cho hai ông những gì liên quan đến
Người trong tất cả Sách Thánh”. Và sau khi họ nhận ra Ngài, lúc Ngài bẻ bánh, họ
nói với nhau: “Dọc đường, khi người nói chuyện và cởi mở Kinh Thánh cho chúng
ta, con tim chúng ta đã chẳng bừng cháy lên sao. Ngay lúc ấy, họ đứng dậy, quay
trở lại Giê-ru-sa-lem?” (c. 32-33).
Như thế, lời giải thích của Đức Ki-tô phục sinh về sự tương
hợp giữa mầu nhiệm Vượt Qua của Ngài và Sách Thánh không chỉ đem lại cho hai
môn đệ một sự hiểu biết, nhưng, qua đó, còn tạo ra nơi tâm hồn các ông một kinh
nghiệm, kinh nghiệm “con tim bừng cháy”. Như thế, việc hiểu Sách Thánh được
hoàn tất nơi Đức Giêsu đã phải đi ngang qua chốn sâu thẳm của tâm hồn, và làm
cho sinh động mọi gốc rễ của tâm hồn, để có thể làm cho “con tim bừng cháy”. Vậy
thì tại sao người nghe, là hai môn đệ và hôm nay đến lượt chúng ta, lại thấy
mình có liên quan, thấy mình được đánh động bởi sự kiện Đức Ki-tô hoàn tất Sách
Thánh cổ xưa?
Gương vâng phục của Đức Giêsu đối với Cha của Ngài có lẽ
chưa đủ, vì chúng ta vẫn còn ở bên ngoài. Chúng ta thấy mình có liên quan, bởi
vì sự vâng phục của Đức Giêsu đối với Chúa Cha được bày tỏ ra cho Ngài ngang
qua con người. Kế hoạch của Chúa Cha được ghi khắc ở đâu, nếu không phải là
trên con người, trên toàn thể một dân tộc có trước Ngài? Hẳn là kế hoạch này được
viết trong một cuốn sách; nhưng nếu các trang sách biết nói, đó là bởi vì chúng
qui về những cuộc đời cụ thể, giống như cuộc đời cụ thể của chúng ta, và Thiên
Chúa đã dùng những cuộc đời cụ thể này để ghi khắc trên đó kế hoạch Ngài thiết
lập cho Đức Kitô của Ngài. Và, vì dân tộc này giống như chúng ta, con tim chúng
ta có thể “bừng cháy” khi chúng ta nhận ra nơi con người và cuộc đời của mình
hành trình Vượt Qua của Đức Ki-tô.
Sách Thánh, và dưới ánh sáng của Sách Thánh, là chính cuộc đời
chúng ta, vẫn được Đức Ki-tô giải thích và soi sáng bởi mầu nhiệm VQ của Ngài mỗi
ngày trong Thánh Lễ.
2.2 Dấu chỉ Bẻ Bánh
Dấu chỉ Bẻ Bánh là điểm tới của hành trình “giải thích Sách
Thánh”, đó là bởi vì ơn huệ “bánh hằng ngày”, vốn hướng tới “Bánh Hằng Sống”,
là điểm tới của sáng tạo và lịch sử cứu độ, được ghi lại trong Sách Thánh. Thực
vậy, theo Tv 136, ơn huệ “bánh” (được dịch là “lương thực”, trong câu 25) là điểm
tới của công trình sáng tạo (c. 4-9; x. St 1, 29), và của lịch sử cứu độ (c.
10-24; mục đích cuộc Xuất Hành là đi tới Đất Hứa, “nơi chảy sữa và mật ong”; x.
Tv 81).
Dấu chỉ “bẻ bánh” là Bí Tích Thánh Thể. Chắc chắn rồi. Điều
này cho thấy hành vi « bẻ bánh » trong cuộc đời của Đức Ki-tô và nhất là trong
Bữa Tiệc Ly, gắn liền với ngôi vị của Ngài và đã ăn sâu vào tâm trí các môn đệ,
đến độ, khi nhìn thấy cách thức Ngài bẻ bánh và dâng lời chúc tụng, là họ nhận
ra Ngài ngay. Nhưng với khung cảnh của trình thuật Emmau, chúng ta cần mở rộng
dấu chỉ này ra ngoài đời thường nữa, ra cõi hiện sinh nữa. Dấu chỉ “bẻ bánh”
còn là bữa ăn hằng ngày, nơi đó chúng ta nhận ra ơn huệ Thiên Chúa ; và ơn huệ
lương thực đã loan báo cho chúng ta ơn huệ Lương Thực đặc biệt là chính Đức
Ki-tô.
Ngoài ra, « Bẻ Bánh » còn là dấu chỉ tình thương nhưng
không, tình thương hiến dâng, tình thương hi sinh. Do đó, đời dâng hiến là một
dấu chỉ “bẻ bánh”, qua đó chúng ta làm chứng về sự hiện của Đức Kitô phục sinh,
mạnh mẽ đến độ chúng ta có thể từ bỏ đời mình để sống đời dâng hiến.
3. « Trên đường
Giê-ru-sa-lem »
Bấy giờ, hai môn đệ từ Emmau trở về, thuật lại những gì đã xảy
ra dọc đường
và việc mình đã nhận ra Chúa thế nào khi Người bẻ bánh.
Trước khi trở thành chứng nhân, chúng ta được mời gọi mở
lòng ra để lắng nghe các chứng nhân. Và điều này phải làm chúng ta ngặc nhiên :
kinh nghiệm này cũng phải có, ngay cả đối với các tông đồ, vốn là các chứng
nhân ưu tuyển ! Thật vậy, trước khi trở thành chứng nhân, chính các tông đồ
cũng đã phải trải qua kinh nghiệm lắng nghe các chứng nhân khác, vốn đã được
ban ơn nhận ra Đức Ki-tô phục sinh trước. Đó là chứng từ của thánh nữ Maria
Mác-đa-la (Mc 16, 11 và Ga 20, 18) ; chính vì thế bà được Truyền Thống Giáo Hội
tặng ban tước hiệu « Tông đồ của các Tông Đồ » ; và đó cũng là chứng từ của hai
môn đệ từ Emmau trở về.
Trong Tin Mừng theo thánh Mác-cô (16, 9-15), Đức Ki-tô phục
sinh khiển trách các tông đồ không tin và cứng lòng, vì các ông không tin lời của
các chứng nhân. Như thế, Chúa rất coi trọng việc chúng ta làm chứng cho nhau :
lời của của người khác dành cho chúng ta, lời chứng của chúng ta dành cho người
khác. Tại sao Chúa coi trọng lời chứng như thế ? Bởi vì, chính Ngài hiện diện
nơi lời chứng và lòng tin và chúng ta trao ban cho nhau, để nối kết chúng ta
nên một. Và chính khi chúng ta nên một, chúng ta trở thành hình ảnh đích thực của
Thiên Chúa Ba Ngôi, vì Thiên Chúa Ba Ngôi là Một, là Tình Yêu. Và đây chính là
nguồn sức mạnh và là nền tảng của lời loan báo Tin Mừng.
Chúng ta hãy lắng nghe và đi vào tâm tình của các chứng nhân
chia sẻ kinh nghiệm gặp gỡ Đức Ki-tô phục sinh : hai môn đệ đã chia sẻ với tất
cả niềm xác tín và niềm vui như thế nào ? Và các ông đã ước ao thông truyền
kinh nghiệm của mình như thế nào ? Đức tin và ơn gọi của chúng ta cũng dựa trên
lời chứng của Giáo Hội và của rất nhiều người xa gần. Tuy nhiên, để trở thành
chứng nhân, lắng nghe lời chứng vẫn chưa đủ, bởi vì đó mới chỉ là lời mời gọi
hướng đến, chứ không thay thế được, kinh nghiệm đích thân nhận ra sự hiện diện
sống động của Đức Ki-tô phục sinh trong cuộc đời và hành trình ơn gọi của chúng
ta.
Lm Giuse Nguyễn Văn Lộc
0 nhận xét:
Đăng nhận xét